(Trang đầu.)
Lời Tựa
Hư Không là cái lò của Trời, lại là kho chứa linh khí Vô Cực thường ban phát cho cả Đại Càn Khôn Vũ Trụ hưởng dùng. Không một vị Tinh Tú, Âm Dương, nhân loại, và vạn vật nào mà không đón nhận linh khí của Hư Vô, Linh Thể của Vũ Trụ, để kết thành thân khôn lớn, mà không mấy ai thấu hiểu tại sao nhân loại và vạn vật lại có hình sắc và có thanh tướng.
Nơi vô tướng sản sanh tất cả
Cõi hữu tình Trời Đất sanh ra
Tam Thiên nhân loại một nhà
Âm Dương nhị khí vốn Cha Mẹ Trời.
Trời không nói nơi nơi quang chiếu
Đất vô tư linh diệu dưỡng nuôi
Đạo của Thầy lò lớn rèn trui
Nhân loại được an vui nhờ Đạo.
Trời Vô Cực ban ra linh khí, cho Âm Dương ngưng kết lại thành một luồng hào quang linh khí ban khắp cùng mọi nơi, chiếu cho muôn vật đồng hưởng cái khí linh của Trời, cái Đạo linh của Thầy, mà hoá hoá sanh sanh không ngừng nghỉ. Bầu dưỡng khí của vạn linh đang sống ở nơi đây đều hưởng đầy đủ khí linh của Đạo và nhị khí Âm Dương của Trời Đất mà kết hợp lại với Ngũ Hành.
Trời lấy Ngũ Khí để nuôi nhân loại.
Đất lấy Ngũ Sắc để sanh nhân loại.
Trời lấy Ngũ Quang để dạy nhân loại.
Đất lấy Ngũ Đức để giáo dỗ nhân loại.
Từ đó Tam Giáo lấy tam thốn khí của Đại Đạo Vô Cực Hư Không và khí thuần Dương, thuần Âm mà lập ra Tam Giáo, mở trường đạo đức phổ hoá nhân sanh để đồng hành Đại Đạo.
Học để biết chơn bản tánh nguồn cội.
Luyện để đạt linh khí triều nguyên.
Xưa nay học Đạo là để tìm ra nguồn gốc của nhân loại, và sự xuất thân của Đạo Học của Tam Giáo xuất phát từ đâu ra chơn lý của Đạo. Còn tu luyện là thật sự để quay về nguồn Đạo bằng linh tâm ngộ Đạo. Người học Đạo mà truy được cái nguồn cội của Đạo Học là bậc chí nhân hiệp thể cùng Trời Đất và Tam Giáo 'đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.'
Tu Dưỡng Bên Thầy là nói lên một phần của các vị Đắc Pháp Chứng Đạo bên Thầy và vào được lò Trời luyện được khí linh của Hư Vô Chi Khí.
Nhân Lớn hiệp một cùng lòng Trời.
Đạo Lớn phổ hành trong nhân loại.
Trong cõi Hư Vô Phi Phi Tưởng mà lại không tên. Nó huyền bí vô cùng, không thể diễn tả bằng văn ngôn mà hết ý. Cho nên Thái Bình được phép Thầy dạy, mới viết ra một phần nhỏ của sự chứng Đạo - Tu Dưỡng Bên Thầy - cho quý bạn chơn tu hướng tâm về Đại Đạo mà thành chánh quả kỳ nầy, để cùng Thầy, cùng lòng Trời, xây lại cảnh Thái Bình cho nhân loại vào đây tu dưỡng.
Chứng Đạo dâng hoa đến mười phương,
Chúc lành nhân loại được mở đường.
Kính Bái,
Đức Thầy Vô Danh Thị.
Chơn Đạo Vô Hình.
Chơn Phật Vô Tướng.
Chơn Nhơn Vô Danh.
Chơn Tu Vô Tranh.
TU DƯỠNG BÊN THẦY
Tu Dưỡng Bên Thầy tâm nầy hiệp một
Tu Dưỡng Bên Thầy cầm đuốc Từ Bi
Tu Dưỡng Bên Thầy tự truy đường Thánh
Tu Dưỡng Bên Thầy chung ánh từ quang.
Tu Dưỡng Bên Thầy hiệp cõi Niết Bàn
Tu Dưỡng Bên Thầy Kim Cang kinh phổ
Tu Dưỡng Bên Thầy Kim Cổ Kỳ Nhân
Tu Dưỡng Bên Thầy hiệp một tinh thần.
Tu Dưỡng Bên Thầy Kim Thân sáng chói
Tu Dưỡng Bên Thầy không hỏi một lời
Tu Dưỡng Bên Thầy sống giữa lòng Trời
Tu Dưỡng Bên Thầy ngàn đời bất diệt.
Tu Dưỡng Bên Thầy học cơ minh triết
Tu Dưỡng Bên Thầy luận thuyết Phật Ngôn
Tu Dưỡng Bên Thầy siêu thoát vía hồn
Tu Dưỡng Bên Thầy ôn tồn xây dựng.
Tu Dưỡng Bên Thầy truyền tâm cảm ứng
Tu Dưỡng Bên Thầy đạt dũng đạt hùng
Tu Dưỡng Bên Thầy hộ nhập Hư Không
Tu Dưỡng Bên Thầy xây xong Thiên Quốc.
Tu Dưỡng Bên Thầy mở đất Như Lai
Tu Dưỡng Bên Thầy hiền sĩ đời nay
Tu Dưỡng Bên Thầy Rồng Mây lập hội
Tu Dưỡng Bên Thầy mở Hội Long Hoa.
CHƯƠNG MỘT
Tu Dưỡng Đại Pháp,
Hiệp Thân Tạo Hoá.
Tu dưỡng bên Thầy là hiệp thân vào lò của Tạo Hoá chí linh, chí thiện. Luôn luôn không được tư dục khiến sai, lòng trần bất nhiễm, vô vi an tịnh. Rồi đem cái linh tâm hiệp thể với lòng Trời trong Hư Vô bất động mà luyện cái khí linh của lò Trời.
Vạn vật trên đời là Không, vô tư thuần tánh, sống yên vui với cái Thiên Lý mà Trời cho mình minh tâm kiến tánh. Rồi đem cái khí thuần Dương để hiệp vào lò Trời, rèn luyện cái linh tâm Không Không an trụ, biến hoá vô biên, vô sanh bất diệt.
Sau đó đem cái khí linh về bổ dưỡng châu thân, hào quang tỏ rộng, khí linh bao phủ. Một hơi Pháp Luân Thường Chuyển là thâu gồm hết các khí linh của Hư Vô vào trong nội thức để dưỡng Đạo. Lấy chất Xám của Vũ Trụ Hư Vô mà làm luồng khí linh của Diệu Quang Di Lạc. Rồi hiệp với luồng Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, và Thần Quang Diệu Tướng của Thầy vào trong mình. Thì từ đó Chơn Quang của mình đủ đầy bảy nguồn sinh lực của lò Trời mà đi ban phát cho chúng sanh trừ căn diệt bịnh.
Mỗi Chơn Linh đến gần thì rút được bảy luồng linh khí của Thầy mà tu hành mau phát Huệ. Cộng với cái Mật Pháp của Trời, hai cái hiệp thân lại với nhau thì như người có được chìa khoá của Thiên Địa Vũ Trụ vận hành.
Càng tập luyện siêng năng thì tánh linh càng khai mở. Và càng lên cao tiếp được luồng hào quang của lò Trời quang chiếu. Từ đó mỗi tự thân phải biết lui về thanh tịnh, tịnh tu, tịnh luyện cái khí hoá của Trời đang thay đổi cực mạnh trong Vũ Trụ Quang, cho đến cõi con người, sinh vật, cỏ cây, không khí, mỗi mỗi vận hành cho đúng chu kỳ của Thượng Giới đang chuyển hoá xuống trần gian.
Người minh Đạo tu dưỡng với Thầy là phải biết lấy Đạo 'phục linh hườn vô'. Tu dưỡng cái khí hoá từ dưỡng khí cho tới khí Hạo Nhiên, rồi khí hoá Huyền Quang của Thầy chuyển xuống thế gian. Dương mượn khí hoá Huyền Quang của Thầy mà chuyển thể lập thân ra vào Tam Giới. Âm cũng mượn khí hoá của Thầy mà kết thai lập đảnh an lư. Khi Kim Thân sanh trưởng, ra vào Tam Giới thông đạt Sáu Cõi. Nhưng lúc nhập định tham thiền, hay thiền giác, đều phải dùng ý chưởng dưỡng hào quang, chưởng dưỡng linh khí của Hư Vô Đại Định. Từ đó linh khí giao tiếp - hai mươi bốn trên hai mươi bốn - với khí linh mà bổ dưỡng cho Thần Quang để độ đời; bổ dưỡng cho Kim Thân ra vào Tam Giới học và luyện Đạo.
(Hết trang 4.)
1-kinh thanh văn kỳ:
2- bạch ván kỳ:
3- huyền văn kỳ:
4- hồng văn kỳ.
5- huỳnh văn kỳ:
xin chỉ điểm các khiếu trong cơ thể và chìa khóa khai mở
(Tiếp theo trang 115.)
Lúc này các vị Tiên Trưởng cũng ghé qua thăm coi và chúc lành cho tôi đạt Đạo. Tôi ngó lại tự thân thấy mình bận đồ trắng, đeo dây nịt có con Rồng vàng, hài tiên trong ngoài phát quang linh khí bao bọc. Đức Đạo Tổ đưa cây phất trần lên thì tôi được bay ra khỏi lò Bát Quái. Tôi cảm ơn Đạo Tổ và Ngọc Đế, Phật Mẫu và Chư Tiên hộ độ dạy dỗ.
Đạo Tổ nói: "Xưa kia con là đệ tử của Tam Giáo, tu luyện một ngàn năm và làm việc cho Ngọc Đế. Sau đó con xin theo Như Lai Phật Tổ học Đạo, đến nay là ba ngàn bảy trăm năm. Vì vậy mà con được Trời Phật và Cộng Đồng Tam Giáo cho con làm lễ giáng trần làm con nhà thôn dã, để cho khổ nhồi để cho con mau chán nản mà đi tu sớm thành chánh quả, để về đây luyện khí linh của Trời Đất mà chứng Đạo đắc pháp, rồi con lãnh mệnh Trời trở lại phổ độ nhân sanh. Vì Trời có mạch kinh độ người không dứt, Đất có lòng từ chuyển khí nuôi dưỡng, và Tiên, Phật, Thần, Thánh có lòng nhân độ người không mõi. "
"Con đã hiệp Đạo Trời, thần linh trí tuệ hiệp với lòng Trời là hiệp cùng mạch kinh của tạo hoá xuống linh tâm của con mà dẫn độ nhân loại, vì trong kỳ nầy khổ ải không có bến bờ. Đức con lớn mà hiệp cùng đại từ, đại bi của các vị Bồ Tát, của tình Mẹ linh thiêng nên con mang luồng linh khí Hạo Nhiên trên mình để đi dẫn độ môn sinh khai pháp, truyền giáo cho các môn sinh được phục hồi chơn khí, khai mở tánh linh tu hành đạt Đạo."
"Con hiệp với Thánh Tâm của Tiên Phật, Tam Giáo cảm ứng khắp Càn Khôn Vũ Trụ mà viết ra thiên kinh, giảng rộng vạn quyển, để truyền đời cho nhân gian và các môn đệ biết được hành văn để học Đạo; biết chỗ thông thương; biết nơi giao kết mà hiệp Đạo Càn Khôn; rồi phân thế pháp môn tu dưỡng cho đúng thời kỳ để luyện Đạo cho mau có kết quả. Cũng như người trồng cây mà biết điều độ bón phân tưới nước, điều hoà nhiệt độ thời tiết. Có công thức nuôi dưỡng rõ ràng thì đạt được kết quả hơn người bỏ thí cho Trời Đất tự sanh tự trưởng."
Đạo Pháp
Đạo có Pháp dẫn đường chỉ lối
Phân nó ra sáng tối chia đồng
Đạt quân bình hiệp với Hư Không
Mượn lò lớn kết Thai lập Đảnh.
Chơn Linh hiệp Âm Dương tuỳ thế
Dùng Âm Dương bổ lý Càn Khôn
Nhờ lò Trời Bát Quái Tiên Đơn
Chế cho được Tiên Đơn diên hống.
Đạo một thể luyện tâm biết lóng
Để Đạo thanh hiệp khí Càn Khôn
Cầm mệnh Trời tỏ lý Thiên Cang
Biết pha chế Linh Quang tự tánh.
Linh tâm mở ba ngàn Tiên Thánh
Tam Giáo cùng một thể sanh ra
Đất và Trời Linh Thể Mẹ Cha
Là nhà lớn cho người đoàn tụ.
Đức Đạo Tổ ngâm xong, rồi cùng các vị Tiên Trưởng đưa tôi gặp lại Thầy, Ngọc Đế, Phật Mẫu và Chư Tiên. Ai ai cũng chúc lành cho tôi.
Lúc nầy Ngọc Đế dạy: "Từ nay con đã có Thầy, có Cha, có Mẹ và có Sư Phụ, Sư Môn. Ở đây là quê hương của các Chơn Linh, là nhà của Thần Thánh Tiên Phật, và cũng là nhà của con. Lúc nào con tịnh luyện, con được phép ra vào Tam Giới mà khỏi phải trình trước."
Nói xong Ngọc Đế lấy ra một lệnh bài bằng Bạch Ngọc hình tròn có khắc hình Thái Cực, hai bên có hai con Rồng, ngoài bìa trên có thắt một sợi dây đỏ, bên dưới có viên ngọc sáng rực.
Ngài bảo: "Đây là Bảo Ngọc của Trời, Ta cho con mang nó trong mình. Khi các vị Thần, Thánh, Tiên, Phật và các vị Hộ Pháp biết con có Thiên Lý trên mình nên không truy cứu. Hễ các vị Thần Tiên trong Tam Giáo thấy lệnh của Trời trên mình con là ra sức giúp đỡ. Ai thấy Ngọc Bảo của Trời là thấy Ngọc Đế rồi vậy. Thần, Thánh ai thấy Ngọc Bảo nầy đều phải làm lễ với con là vậy."
Tôi nhận Ngọc Bảo và làm lễ Đức Ngọc Đế rồi lui ra. Tôi qua bên Đức Diêu Trì Kim Mẫu, Ngài có tặng cho tôi ba quyển Chơn Kinh và một cây Thánh Bút bằng vàng óng ánh.
Phật Mẫu dạy: "Ba quyển Chơn Kinh nầy là gồm chứa Đại Thừa Chơn Kinh, là Linh Bảo của Tam Giáo.
"Quyển thứ nhất, cái bìa bằng Bạch Ngọc ép lại, nó là quyển Bạch Tự Chơn Ngôn. Quyển Kinh nầy chỉ dạy cho hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật tu hành đã đắc pháp rồi, và đã mở được Lục Huệ thì mới định linh giác và trí tuệ để đại triệt, đại ngộ. Khi đọc nó ra là thay đổi Ngân Hà, phong Thần, di chuyển các hàng Tinh Tú, sai Thần khiển Thánh, hú gió kêu mưa. Mỗi mỗi phải quy thuận luật Trời không được trái Đạo. Quyển Kinh nầy con chỉ dùng vào khi Hội Long Hoa mở đài Phong Thần lập lại Thiên Mệnh."
"Quyển thứ hai màu vàng y, đó là quyển Vô Tự Chơn Kinh. Con được phép dạy ra cho các hàng môn đệ tỏ ngộ Huyền Cơ, linh tâm khai mở. Trong nầy dạy các Mật Ngôn, Khuyết Linh để giáo dạy cho người tu thành chánh quả, biết phương pháp Đại Thừa Cửu Chuyển Tiên Thiên Vô Vi để hiệp khí Hạo Nhiên vào linh tâm kết Thai lập Đảnh tu thành Kim Tiên Như Lai mà thành chánh quả."
"Còn quyển thứ ba màu hồng ngọc, nó là cuốn Kinh Hư Vô Diệu Hửu, trong đó chứa tất cả linh tâm, linh tánh của Tam Giáo Đại Thừa. Những cách tu do những vị tu luyện thành chánh quả viết lại kinh lý ấy để dìu tiến môn đệ thành Tiên đắc Phật, và dạy những phương tiện tu tắc đạt Đạo. Các giáo pháp mở rộng cho quần chúng cùng tu Thích, Khổng, Đạo đều có đủ, rất chí linh, chí diệu, chí vô tư. Các môn đệ học được tỏ ngộ bắt đầu về đây dự lễ tẩy trần vào hàng Tiên Thánh của Tam Giáo rồi tu tiếp. Hoặc là thành nhân hiền vào Hội Long Hoa, để vào Nước Trời tu dưỡng Đạo Đức ngàn năm rồi thăng tiến về Trời."
"Còn cây bút nầy nó là linh tâm của Trời từ xưa nay ai mà được nó thì viết ra Kinh Pháp của Trời.
- Phật Di Đà được nó, viết ra Kinh A Di Đà.
- Phật Thích Ca được nó, viết ra Kinh Nhân Quả Báo Ứng.
- Phật Nhiên Đăng được nó, viết ra Kinh Pháp Hoa.
- Bồ Tát Quán Thế Âm được nó, viết ra Kinh Cứu Khổ và Bạch Y.
- Bồ Tát Di Lạc được nó viết ra Kinh Thánh và Kinh Bát Nhã.
- Địa Tạng Vương Bồ Tát được nó, viết ra Kinh Siêu Độ Âm Hồn.
- Thánh Nhân Lão Tử được nó, viết ra Kinh Huyền Tẫn và Đạo Đức Kinh.
- Thánh Nhân Khổng Tử được nó, viết ra Kinh Ngũ Luân.
- Thánh Nhân Trang Tử được nó, viết ra Nam Hoa Kinh.
- Thánh Nhân Mạnh Tử được nó, viết ra Tam Giáo Thiên Kinh.
- Hồng Mông Lão Tổ được nó, viết ra Thần Chú, Linh Phù, Kinh Phép.
- Tiên Nhân Khưu Trường Xuân Đạo Quân được nó, viết ra Bộ Tây Du Ký.
- Bạch Vân Thiền Sư được nó, viết ra bộ Phong Thần."
"Đó là một số thuận miệng mà kể ra đây, chớ bao nhiêu ngàn năm, không biết bao nhiêu thời mà kể cho hết. Khi nào các con về Hàn Lâm Viện Học của Đại Thiên Thế Giới, ở đó đều có đủ cho các con nghiên cứu. Hôm nay Mẹ giao Thánh Bút lại cho con là Mẹ đã truyền cho con ba bậc rồi vậy.
Lòng Trời là kho lớn của Tam Giáo, con tự do về đây an dưỡng khí linh Đạo Lớn.
Tâm Trời là Ngòi Bút Thánh, con được phép viết lại những gì Trời cho phép dạy lại cho các môn sinh.
Tánh Trời là đức lớn, gồm chứa thiên Kinh, vạn Giáo Pháp của Tam Giáo từ vô vô vi cho tới vô vi rồi đến hữu vi. Mỗi mỗi đều có sự Huyền Cơ Ẩn Ngôn, Mật Ý. Từ đây con theo nhân duyên mà giáo dạy cho nhân sanh."
"Còn pháp danh của con Trời đã đặt tên là Thái Bình. Hôm nay Mẹ và Ngọc Đế cùng Tam Giáo đã chọn cho con bút hiệu là 'Thái Bình Thi Văn Tâm Linh Đạo Học' gọi tắt là Thái Bình Thi Tập. Từ nay con đem bút hiệu văn ngôn ra để đóng góp một nguồn minh triết của Trời Phật và Cộng Đồng Tam Giáo, cho nhân sanh thấy rõ Trời Phật và Cộng Đồng Tam Giáo đang khai sáng đời sống Thái Bình cho các Chơn Linh đồng hưởng. Luồng thanh quang điển lành đang xuống dương gian để lập ra hai mùa Xuân Thu không cách tiết, nhuần thắm khí linh, cỏ cây, vạn vật và nhân sanh đồng hưởng cảnh Thái Bình của Thầy Mẹ và Cộng Đồng Tam Giáo lập ra một Nước Trời tại Địa Đàng của trần gian."
Phật Mẫu dạy xong, tôi lui xuống nhận ba quyển Chơn Kinh và cây Bút Vàng. Tôi bỏ nó vào trong túi Càn Khôn cất giữ.
Sau đó Thầy gọi tôi đi theo Thầy, Đức Ngọc Đế, Phật Mẫu và các vị Đại La Tiên Trưởng đều bay ra giữa Hư Không.
Lúc đó tôi đang ngồi tịnh toạ, Thầy kêu tôi nằm xuống rồi Thầy dùng một luồng hào quang Đại Trí chiếu xuống trên đầu tôi, ánh sáng toả ra vô cùng mãnh liệt. Phật Mẫu cùng các vị Bồ Tát chiếu một luồng Kim Quang Đại Bi vào ngũ tạng của tôi, ánh sáng phát ra rực rỡ. Ngọc Đế cùng các vị Tiên Trưởng chiếu một luồng hào quang Đại Dũng chánh khí của Trời. Kim Thân của tôi đều phát ra ba luồng Kim Quang rất là mãnh liệt vô cùng. Lúc nầy toàn Kim Thân và trí tuệ tôi thông suốt, đạo đức viên dung, toàn thân hào quang toả sáng không ngừng nghỉ.
Thầy kêu tôi quỳ trên Toà Sen Thất Bảo nhận pháp của Trời. Tôi quỳ xuống nhận pháp của Trời, đó là cây thước Ngọc Như Ý của Di Lạc.
Thầy dạy: "Con là Kim Thân của Phật Di Lạc tái sanh, đời nay tu thành Thánh Tâm của Thái Bình. Tuy hai nhưng vốn là một thể phân thân để hành Đạo. Con là con của Trời Đất, đệ tử của Thầy giáng trần tu luyện thành Đạo đắc Pháp. Từ ngày Thầy điểm Đạo cho con và dạy cho con cái Đại Pháp Như Ý, đó là cái pháp môn Càn Khôn hiệp nhất vô vi khoa học huyền bí phật pháp. Xưa nay các pháp môn, các vị giáo chủ, các vị được truyền tâm pháp là ở đây do Thầy chứng Đạo truyền pháp cho tu luyện cũng như con vậy. Pháp nầy:
Thần tu đắc Thần.
Thánh tu đắc Thánh.
Tiên tu đắc Tiên.
Phật tu đắc Phật.
Nhân tu đắc Hiền.
Quỷ Thần tu đắc Tán Tiên."
"Hễ ai có cơ duyên mà gia công tu luyện thì đắc pháp. Cho nên các kinh có viết là Thần, Thánh, Tiên, Phật đều tu chung một pháp là tu các Mật Pháp Càn Khôn Đại Pháp nầy, chớ không phải chỉ tu các pháp căn bản của các phái thiền tông mà thành chánh quả. Hôm nay Thầy giao pháp Như Ý của Trời cho con lãnh mệnh Trời mà đi ra truyền pháp cho cả Tam Giáo Ngũ Chi và các môn sinh đồng tu dưỡng đạo đức mà tiếp linh khí của Hư Vô để luyện Đạo. Thầy đặt tên cho nó là Như Ý Pháp Môn. Con chia nó ra làm ba phần mà phổ độ Linh Căn. Mỗi một bậc Thầy sẽ chuyển cho một ngàn vị Phật Sự ở cõi Trời làm tiếp dẫn Đạo Sư xuống lên Tam Giới hộ pháp và tiếp dẫn các Chơn Linh tu luyện đạt Đạo."
"Đại Pháp: Bậc thứ nhất chỉ dạy cho các hàng chứng Đạo, Đại Căn, các vị Giáo Chủ tái kiếp, các vị Tiên, Thánh, Phật, đã và đang đầu thai làm người tu luyện trong Tam Giáo, thì con nên chỉ Đại Pháp để lên lớp cho họ vào non, vào thất tu dưỡng."
"Trung Pháp: Bậc thứ hai là những vị đã từng tu dưỡng thiền định, hay các pháp căn bản thanh lọc được Tam Điền Ngũ Khí sạch sẽ, thì con dạy pháp tu dưỡng chơn khí, khai thần mở tuệ cho họ."
"Sơ Pháp: Bậc thứ ba là con dạy cho các môn đồ xưa nay chưa có hành qua các pháp môn và các vị mới vào nhập môn cầu Đạo để thanh lọc tâm thân. Khi họ được thanh sạch thì dạy lên cao.
Đạo Thái Bình ra đời,
Để dạy Pháp Như Ý.
Tâm Ngôn Mật Pháp Đạo truyền ban
Đắc Thánh minh tâm ngộ lời vàng
Trên lãnh Thiên Toà Tam Pháp hiển
Chí linh, chí diệu giáo truyền ban."
Thầy dạy tiếp: "Cái Thất Bảo Liên Đài nầy, từ đây Thầy giao nó cho con trọn quyền sử dụng. Con có nó mà đi lại trên không trung Phật Giới dễ dàng. Thầy kết nó lại bằng bảy viên Ngọc Như Ý của Thầy, Thầy giao nó cho con làm hành trang đi độ môn sinh. Còn đây là cái vòng Thiên Cang Càn Khôn Đại Pháp, Thầy cho nó theo con. Kỳ nầy, Thầy chứng Đạo cho con ra nhận Thiên Ân phổ truyền giáo lý. Đây là sự sắp đặt của Thầy, các con nên theo đúng Thiên Cơ của Thầy và Cộng Đồng Tam Giáo khai cơ Di Lạc."
Lịnh Thầy sắp xếp ở Kỳ Ba
Trên dưới Phật Tiên cảm giao hoà
Thiên Mệnh trên mình lo tu dưỡng
Kịp cơ phán xét Hội Long Hoa.
Thầy dạy xong. Tôi làm lễ chào Đức Ngọc Đế, Phật Mẫu và các vị Tiên Trưởng, rồi đồng hội tôi lễ Thầy. Sau đó Kim Thân tôi bay về bản thể.
Trời Đất sanh ra một cái tâm
Giữ cầm Tam Pháp chẳng sai lầm
Ra ngoài Sáu Cõi thường minh Đạo
Vào hiệp Hư Linh luyện cái tâm.
Thầy chiếu Kim Quang thật sáng loà
Pháp thân linh ứng huệ thông xa
Ngàn kinh muôn pháp ghi vào bụng
Tựu khí linh thiêng tròn vo vo.
Đầu tròn mắt sáng miệng cười tươi
Khổ hạnh ngàn năm nguyện giúp đời
Đem Đạo cứu đời khai Giáo Pháp
Như Lai chơn lý pháp của Trời.
Thiên Lý Thầy cho được viết ra
Còn phần chưa viết vốn thiên hà
Chánh ngôn chia sẻ cùng Chơn Đạo
Lãnh hội Hư Vô tự bước vào.
Rèn Tâm Luyện Đạo
Được rèn luyện để trở thành bất tử
Được trui mài để thành bậc vĩ nhân
Lửa càng trui khai ngòi đuốc tinh thần
Đạo càng khảo trở thành thân bất hoại
Nhồi đến chỗ Thần Quang tròn sáng chói
Ma khảo đời là lửa của cõi Âm
Người chơn tu Ma khảo để luyện tâm
Nhận oan trái đạt quả lành Bồ Tát
Cái Hoa Đạo nở trong cơn nhồi quả
Quả vị thành nhờ Ma khảo Đạo thành
Từ xưa nay trong lịch sử Phật danh
Đều chấp nhận để trở thành bất tử
Thánh Tiên Phật lòng từ bi có đủ
Mới cầm cân Trời Đất phổ kinh văn
Đem từ bi cải hoá khối tinh thần
Tâm Đạo mở hiệp thân cùng Tạo Hoá
Nên hào quang sáng chói khắp Năm Châu.
- Hết-
(Hết trang cuối.)
(Tiếp theo trang 102.)
CHƯƠNG SÁU
Hôm nay cõi Trời có đại lễ, Thầy đưa tôi vào dự lễ của Trời. Tôi xuất thần lên không trung thì Thầy đưa tôi lên Toà Sen Thất Bảo.
Thầy nói: "Kỳ nầy Thầy đưa con ra mắt Đức Ngọc Đế và Đức Diêu Trì Hoàng Mẫu, và Cộng Đồng Tam Giáo, Tam Thanh Chưởng Giáo."
Lần nào được đi chung với Thầy thì Thầy làm phép thâu đường rất lẹ.
Tôi hỏi Thầy: "Bạch Thầy, lần nào con đi với Thầy thì các khoảng không gian như đi qua tít tắt. Vậy xin Thầy dạy cho con cách thâu đường của Trời, của Đất."
Thầy dạy: "Xưa Tôn Ngộ Không ỷ có phép Cân Đẩu Vân như phép con đang di hành bây giờ, mà ra muốn thử phép của Thầy. Ý trong sách viết khúc nầy là cái lòng dục vọng, ngã mạng của con người chưa hết, nên lúc nào cũng thách đố tài năng, ganh hiền thử Đạo, nên sanh ra tâm viên ý mã mà đua với bậc Siêu Nhân Vô Thượng. Đó không khác gì như đứa trẻ mới ra đời cầm cây dù để che ông Trời, như con ếch nằm dưới đáy giếng coi Trời Đất chỉ bằng cái miệng giếng. Chứ theo đường Cân Đẩu Vân, như Tề Thiên Đại Thánh thì phải bay ba ngàn năm mới đi được giáp vòng cõi Ba Ngàn Thế Giới rộng lớn bao la nầy."
"Còn trong trung tâm diệu hữu của Thầy chưa có ai vào nổi để mà biết nó ra sao. Nơi đó là chỗ bí mật của Trời Đất. Cho dù các vị Chơn Nhơn Cổ Phật còn chưa đủ trí tuệ để học luyện hết các phép của Trời, vì vậy mà Tam Giáo gia công tu dưỡng và học tập không ngừng. Trời Đất cũng tu dưỡng đời đời không dứt, là cái mệnh của Trời Đất, Vũ Trụ, Tiên Phật đều phải vào đây để chứng Đạo, thăng hoa Đạo pháp. Nơi đây là lò Trời, là chỗ chứa nguồn linh khí cực mạnh, cực thanh, cực tịnh. Cho nên các hàng Đại Thánh Chơn Nhơn trước khi thành Đạo Vô Cực đều phải vào đây luyện Khí hoá hình, luyện Thần thành Chơn Nhơn, để biến ba thốn khí, Tinh Khí Thần, thành Tam Hoả Chơn Muội để kết Kim Thân Diệu Tướng mà đi hành Đạo."
"Còn Ngũ Giới, Tam Thanh, Tứ Diệu, Lục Căn và một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ kheo đều được hoá thân làm việc tu hành trên mảnh đất linh của Thượng Giới, tức là trong Xá Huệ Quốc của con. Khi con tu chứng Đạo của Thầy rồi, là con có đủ phương tiện ở trên đất Phật mà hưởng dùng là vậy."
"Còn phép thâu đường Trời, Thầy đọc hai câu chơn ngôn con vào đây thì dùng được phép thâu đường, và con nên nhớ không có lệnh của Thầy thì không được truyền mật ngữ linh chú ra bên ngoài được."
Tôi cảm ơn Thầy. Và toà sen tiếp tục bay. Ánh sáng trước mắt toả khắp, lửa cháy bốn phương, lửa cháy ngộp cả không gian. Nơi đây bốn phương là lửa, như ở cõi sản xuất ra lửa vậy. Khí thuần Dương bốc cháy dữ dội, mà Thầy và tôi thấy cả Kim Thân mát rượi.
Thầy dạy: "Khắp bầu Trời không có cửa mà có lửa chận đường là vậy. Những linh hồn tu còn ô trược, và tu dưỡng chưa tới mức, khi xuất hồn ra muốn về đây đều phải qua bảy cửa lửa nầy, nó gọi là Thất Trùng Thiên, để đốt Thất Tình Lục Dục của chúng sanh cháy hết sạch thì mới yên ổn vào đây được. Nếu còn một mảy ô trược đều phải gặp lửa Trời thăm viếng. Cho nên các phần tu còn ô trược chỉ vào được các giới như trung giới mà tu thân trong lò Đạo của Ngũ Lão, sau đó mới có đủ Đạo Lực vào Đại Thiên Thế Giới. Vì vậy, xưa nay ngoài các vị Cổ Phật, Thiên Tôn ra, không mấy người vào được lò của Thầy để chứng Đạo. Vị nào được Thầy điểm Đạo là Thiên Đình sẽ sắp vào hàng Đại La Kim Tiên. Còn bên Phật sắp vào Niết Bàn Thế Giới Ba Ngàn Phật Quốc mà tu dưỡng."
Đến cõi Đại La Thiên Đế, một toà Bạch Ngọc Kinh toả ra sáng chói. Các dãy dinh thự sắp đặt bốn phương, kỳ hoa dị thảo, cây vàng trái ngọc. Thần Tiên đều ra làm lễ Thầy và chào tôi.
Thầy đưa tôi vào nội cung điện của Thiên Đình. Các vị hàng nội cung, các vị Đại La Tiên Giới, Phật Mẫu, Đức Ngọc Đế, Chư Tiên, và các vị Long Thần, Thiên Tướng đều làm lễ chào Thầy. Các vị Tiên hợp ca rồi cùng quỳ lễ Thầy. Thầy vẫy tay lên, muôn ngàn vòng hào quang toả ra ngập cả Thiên Đình.
Rồi Thầy dạy: "Hôm nay Thầy đưa đệ tử của nhà Trời ra mắt Cha Mẹ của Linh Hồn và ra mắt các vị Sư Phụ trong nhiều kiếp ngàn năm học Đạo ở Đại La Tiên Giới."
Thầy nói xong liền kêu tôi ra lễ Ngọc Đế là Cha, rồi qua lễ Phật Mẫu là Mẹ của Linh Hồn. Ngọc Đế vuốt đầu tôi và ban ơn lành. Phật Mẫu ôm tôi vào lòng khóc nức nở và hôn tôi trước đại điện. Tôi cũng oà khóc theo Phật Mẫu. Chư Tiên, Chư Phật đều rơi lệ vui mừng trước cảnh gia đình được đoàn tụ.
Thầy ngồi giữa đại điện nhìn trong sự vui hoà. Các vị Thiên Tôn, Chơn Nhân đều chúc lành cho tôi là được cải lão hườn đồng thành Kim Tiên Như Lai. Phật Mẫu và Đức Đạo Tổ Thái Thượng Lão Quân đưa tôi đến ra mắt Đức Nguyên Thuỷ Thiên Tôn, Đức Linh Bảo Thiên Tôn và cùng chín vị Thiên Tôn coi các cõi Đại Thiên Thế Giới, và các vị Chư Tiên Bồ Tát ở đây, xong rồi đi vòng về ghế danh dự an toạ.
Thầy dạy tiếp: "Từ đây con có Thầy, có Cha, có Mẹ, có các vị Sư Phụ, Sư Môn rồi. Ở đây là nhà con, Cha Mẹ của con, Sư Môn của con. Từ đây con được phép vào đây lãnh hội các vị chơn sư trong Tam Giáo mà học văn chương Đạo Học để về thế gian dạy lại cho các môn đồ biết pháp điều dưỡng tinh thần; biết luật Tam Giáo Ngũ Kinh mà điêu luyện cho phù hiệp với lòng Trời Đất và Ba Nhà lớn của Đạo Đồ, các hàng môn đệ của hàng Chư Tiên mà về lại cội xưa nguồn lành để an dưỡng đạo đức."
Nói xong, Thầy bảo tôi đi theo Chư Tiên và Đức Đạo Tổ ra ngoài tham quan các cung, các cõi ở Thiên Đình.
Tôi lễ Thầy, lễ Cha, Mẹ và lễ Chư Tiên, rồi theo Quần Tiên mười hai vị cùng Đức Đạo Tổ đi tham quan. Các cảnh trí ở đây thật vô cùng trang nhã và hùng vĩ. Mỗi nơi đều nói lên ý Đạo sâu sắc, đi một hồi coi các cõi mà không biết chán mắt. Tôi như muốn ở lại trên đây luôn, hết muốn về lại trần gian.
Đức Đạo Tổ biết ý nên nói: "Con đừng lo, con đã có ba cái nhà lớn mà Trời Phật đã cất sẵn cho con rồi. Một là ở Niết Bàn an định Đại Hồn, con ở đó tu luyện cùng Chư Phật hưởng khí linh của cõi Mười Phương minh triết vô cùng. Cái nhà thứ hai là ở đây, nhà của Trời Đất, cũng là nhà của Cha Mẹ của con. Con muốn về lúc nào cũng được, muốn ở bao lâu cũng tuỳ ý con an dưỡng. Trời rộng bao la ăn ở bao nhiêu cho hết. Còn cái nhà thứ ba là Phật Tổ và Thiên Địa sắp cất xong rồi, khi con về đó hoàng sanh độ chúng, hướng Đạo tinh thần cho các môn đệ của nhà Trời xuống đó có chỗ nương thân, cầu kinh học Đạo, luyện pháp tu thân. Sư Phụ nghe đâu Trời sắp cho con làm chủ cái nhà lớn của Trời, cầm Đạo Lớn của Tam Giáo, phổ Đạo Cơ Ba rồi vậy."
Đạo Tổ hỏi tôi có muốn đi xem sự tích của cái lò Bát Quái không? Tôi đáp: "Thích lắm, thích lắm."
Đạo Tổ đưa tôi bay lên rồi đi hết khu Thiên Đế, rồi qua khu Thái Thượng. Nơi đây rất thanh nhã. Nhà ở đây mái xanh lá cây, vách đỏ, cột trắng, bên trong cẩn toàn ngọc trắng. Các cảnh trang trí bằng các loại ngọc vàng, hồng ngọc. Đi vào bên trong thì gặp các vị Tiên Gia và Đạo Đồng đang đánh cờ tướng. Tôi làm lễ chào, rồi đi theo Đạo Tổ tới gian nhà sau thật lớn rộng. Bên trong nhà có một cái bình ngọc to lớn như cái bình tròn hai bên có hai cái quai lớn, và trên miệng có tám cạnh, có khắc hình Bát Quái quẻ độn giáp.
Đức Thái Thượng đưa cây phất trần lên thì làm cho toàn thân tôi bay bổng lên là lọt vào trong lò Bát Quái, rồi Ngài đậy nấp lại.
Tôi la lên thật to: "Đạo Tổ ơi, con bị kẹt trong nầy rồi, Sư Tổ ơi."
Sư Tổ trả lời: "Thầy kêu Sư Tổ dạy con cái phép Định Thân."
Tôi lại hỏi: "Định Thân bằng cách nào?"
Sư Tổ nói: "Sự bí mật của Đạo Trời, lát nữa con sẽ rõ."
Tôi dùng phép ẩn thân, thì cái lò cũng theo một bên. Tôi dùng phép phân thân, dùng cách biến ra thành ánh sáng thì tôi gặp phải sấm sét đánh vào vô kể. Sau một lát, cái lò có gió thổi vào, có nước chảy ra hơi bốc lên, lửa cháy khắp cả, mây mù che không thấy đường, ngộp thở vô cùng. Tôi càng la thì lửa càng bốc cháy lên cao, hơi nước bốc thành hơi nóng làm mây cùng khắp; dùng phép thì ánh sáng chiếu xuống, khí linh tràn ngập, sét đánh vang tai, gió cuốn cuồng cuộng. Tôi chạy tới, chạy lui, làm cách nào cũng không thể thoát ra ngoài được. Tôi ngồi ngóc một mình, quần áo cháy ráo trọi. Lúc nầy tôi ngồi ngang chỗ giữa của cái lò. Tôi nghĩ chỉ còn một cách là ngồi định thân, bỏ hết các ý nghĩ tìm kiếm đường thoát thân. Tôi ngồi chịu xét đánh xuống vang Trời, gió thổi tới như bão, lửa cháy cuồng cuộng, mưa đổ ào ào, ầm ầm, đùng đùng, bốn phương tám hướng bủa tới làm cho thần thức tôi kinh động vô cùng. Nhưng tôi lại tập như lúc nhập định, buông thả cho ý nghĩ như không nghe, không thấy, không biết, và cho các cảm giác chết hết, không không vô tư. Thì tự nhiên luồng ánh sáng, tiếng sấm bao quanh thân thể tôi và quay vòng tròn. Lửa cũng toả ra thành hào quang. Gió bão cũng êm xuống thành ba luồng khí lực chạy khắp cơ thể. Nước mưa trở thành thuỷ điển giao cảm trong ngoài toàn thân. Lửa Trời bao quanh rộng lớn mà tôi không còn cảm thấy khó chịu và nóng nảy như lúc ban đầu, mà lại mát mẻ toàn thân.
Lúc nầy tôi ngồi trong lò mà Thánh Nhãn nhìn thấy bên ngoài. Đức Đạo Tổ đang ngồi định. Ngài dùng phép Linh Cảm Ứng Tâm giảng Đạo.
Đạo Lớn Vô Thượng
Chí Linh đạt thanh
Lò Lớn Thái Thượng
Đốt Thánh cầm pháp.
Tâm Kinh
Tám cung Hư Linh
Là phép của Trời
Tám cửa Thiên Không
Là nguồn của Đạo
Tam Giáo một lò
Thánh Nhân hành Đạo
Phép Lớn Trời Đất
Trong lò luyện Thần
Đạo Lớn của Đạo
Trong lò định thể
Con hiệp Đạo Lớn
Lò Trời luyện Thần
Con hiệp Tam Giáo
Lò Đạo luyện thân.
Định Kinh
Lò Trời tạo Chơn Nhơn
Lò Đạo tạo Thánh Thể
Con học phép định thể
Là dùng tịnh chế động
Buông bỏ các xúc cảm
Thân huyễn tự cháy tiêu
Định tâm trí an trụ
Kim Thân tự hiệp về.
Giới Kinh
Giới vô động vô cảnh giới
Trời vô động không có tên
Pháp vô động mới linh ứng
Đạo thành phép linh chí Thánh
Đạo huyền phép linh chí thanh
Đức huyền ứng cảm chí tịnh.
Huệ Kinh
Ba Khí khai thông
Đạo Đức hiệp một
Sáu Ngả quy căn
Lục Tánh thanh tịnh
Ngũ Khí triều nguyên
Tiên Thiên hiệp thể.
Bát Công Đức Thuỷ
Bát Quái trui thân
Thần thanh tâm nhẹ
Đức lớn vô tư
Từ tâm chuyển thế
Nhân lớn chí linh
Lò Trời đúc thể.
Linh Tâm Kinh
Tâm thật an định
Linh khí đầy ấp
Trí thật an định
Huệ Quang bao khắp
Lòng thật vô tư
Chuyển người biến vật.
Pháp Thân Kinh
Đạo Lớn vô hình
Linh ứng khắp nơi
Phép Lớn đại định
Nhất động nhất linh
Bát Quái hộ thân
Thần linh đảnh lễ.
Linh Cảm Kinh
Linh cảm Thượng Đế
Bao khắp linh tâm
Khí điển Tam Giáo
Che phủ thể xác
Ứng dụng ba ngàn
Thiên Thần gia hộ.
Thiên Số Kinh
Con nắm Thiên Số
Lập đất Thái Bình
Hồi hướng Chơn Linh
Môn đồ Tam Giáo
Dẫn Đạo Phật Môn
Chơn Nhơn hành Đạo.
Hiển Thánh Kinh
Kim Bảo Ngọc Thân
Hiển Thánh tại trần
Quang Thân Tam Giáo
Hiệp Đạo Càn Khôn
Mở cửa Long Môn
Lập đời Di Lạc.
(Hết trang 114.)
(Tiếp đầu trang 94.)
Sức Kết
Sức kết của gió để làm giông bão.
Tâm lực biết kết sẽ thành Đạo.
Tánh Giới Quy Không
Tánh Không, là tánh thông hiểu hết tất cả
mà không động lòng phàm tục.
Giới Không, là giới hết tất cả không còn
suy nghĩ về nhục dục.
Trí Đạo
Trí Đạo là trí thuỷ muôn hình vạn trạng,
biến hoá vô biên, tới lui thông thả.
Tánh Đạo là tánh thiên chân vô trần,
vô nhiễm nên kết thành linh tánh của Như Lai.
Kinh Như Lai
Như Lai tánh là sự tròn đầy sáng sủa.
Kinh Pháp của Như Lai là lò Trời vô động.
Đã vô động tự nhiên chơn giải hết các pháp môn.
Đèn Trời
Đạo minh triết từ đây phổ bá
Cây đèn Trời lời của Như Lai
Người chơn tu trí tuệ trui mài
Xây lập hạnh vườn hoa Di Lạc.
Khổ Hạnh
Kinh Tây Phương trở thành Chơn Giải
Lời Thánh Ngôn là ý của Trời
Viết ra thành Linh Bảo cứu đời
Vào bể khổ không lời than khổ.
Đức Tài
Lấy tâm, lấy hạnh, lấy tài
Tâm xây đạo đức, hạnh xây đại đồng
Tài trai văn võ làu thông
Xuống đồng, đồng tĩnh; ra đời, đời yên.
Cầm Công Lý
Cầm cân Linh Khứu giáng trần
Ra phò Đạo Lớn Thiên Ân Ngọc Hoàng
Gươm linh trí tuệ mở đàng
Văn ngôn Trời mở Kim Cang Phật phò.
Nước Trời Quy Đạo
Nước trời Tam Giáo quy gia
Ai người đạo đức bước qua trau giồi
Tĩnh tâm chơn thức phục hồi
Tĩnh tâm nhờ pháp mở đời Thượng Ngươn.
Cảnh Thanh Tịnh
Cảnh thanh tịnh quy lai tòng bá
Đạo Tiên Gia có cả trong mình
Học trở thành tâm thức Đạo minh
Thì tỏ ngộ thần linh trí sáng.
Cõi Tây Phương
Cõi Tây Phương Niết Bàn Chơn Phật
Mỗi vị coi Xá Huệ Quốc Hồn
Luyện cho thành Bảo Pháp Thiên Tôn
Mới làm chủ Niết Bàn Phật Quốc.
Trường Như Lai
Trường đạo đức Như Lai xây cất
Dạy những ai Chơn Phật Kim Tiên
Vào Hư Vô tiếp khí linh thiêng
Luyện chơn tánh hiệp tâm đắc pháp.
Mở Lòng Trời
Thiên Lý mở cửa Trời cũng mở
Thánh tâm khai đạo đức mở ra
Trong lòng Trời chơn lý một kho
Lò của Đạo chế người nhân đức.
Tích Đức
Gió lớn thường tích tụ ở không khí đặc.
Đức lớn thường áp dụng ở chỗ không lòng.
Nhân Phẩm
Nhân lớn thường vô tư lặng lẽ an tịnh.
Hạnh đức lớn thường không lời nào để nói.
Đạo Đức Tràn Ngập
Biển Đạo thật vô sanh nên vô hình sắc.
Tình Đạo bao la trong linh tâm bất tử.
Hạnh Trong Nhân
Nhân lớn không thấy hành động của nó.
Hạnh lớn không thấy nó đi nhận công lao.
Thật Lòng Cầu Đạo
Thật lòng tu im lìm cầu Đạo Chơn Giải.
Thật có đức hạnh tu lại hài hoà tao nhã.
Minh Kính Đại Đạo
Gương nước không cần chùi, mãi mãi luôn thanh sáng.
Ngộ Đạo Lớn không còn bàn, mà luôn hành động.
Đạo Phổ Truyền Xa
Gió lớn không tụ ở một phương nên thành bão.
Đạo Lớn không tụ ở một nơi nên đi khắp cả.
Tụ Linh Khí
Cây thật lớn là tụ được khí linh của Trời Đất.
Người đạt Đạo Lớn là hiệp một cùng lòng Trời.
Lối Về
Lá vàng rụng thường bay về cội để tụ lại.
Người già yếu nên tầm về đường Đạo để tụ hội.
Tâm Của Thánh Nhân
Thánh Nhân soi đâu thì tỏ đó, nên biết rõ tình
của Trời, lòng của người, mà lại không động.
Nhân đức lớn làm hoài mà vẫn vô tư thanh thản.
Hiệp Nhất Lòng Trời
Hiệp Đạo với Trời hình như không có lời để nói,
mà chỉ biết làm theo tiếng gọi của thiêng liêng.
Âm Ba Lớn Rộng
Tiếng nói trong tất cả các tiếng nói là
tiếng nói của đại quần chúng.
Tiếng nói không nghe thấy mà hiểu biết,
đó là tiếng nói của Trời.
Phật Ngôn
Nước Phật không có văn ngôn mà chỉ có điển giải Chơn Đạo;
không có hình tướng mà lại chứa Chơn Quang.
Tình Yêu Đại Chúng
Tình yêu cứu thế độ tha là tình yêu của nhân loại.
Tình yêu xây dựng cả Đại Hoàn Vũ cho nhân loại và
Tam Giáo sống chung, đó là tình yêu của Thượng Đế.
Điển Nhạc Hội Tâm
Đạo Lớn không có âm thinh mà có điển nhạc.
Tâm Lớn không có sắc giới lại có thanh quang.
Đạo Đức Dung Chứa
Đức Lớn như không khí chứa cả không gian.
Đạo Lớn như ánh sáng linh khí nuôi muôn vạn vật.
Thuyền Pháp Không Tâm
Thuyền lớn không đáy, mà pháp lực vô biên.
Lòng lớn không có phân ranh, mà chí thiện.
Nguồn Yêu
Nguồn lớn đổ mãi không đầy nên vô động.
Tình lớn hy sinh mãi mà vẫn vô tư.
Tình Yêu Nguyên Thuỷ
Tình yêu mới bắt nguồn từ thời nguyên thuỷ,
nên nó là thứ tình to lớn không vị kỷ.
Biển Đạo Vô Biên
Biển Đạo hình như không thấy đáy nên khó dò.
Đạo Lớn hình như không có tên nên trùm khắp.
Khúc Ca Thái Bình
Diễn Đạo Ca là hàng chứng Đạo, đoạt mệnh lý.
Thái Bình Ca là cho cả nhân gian trở lại trong
tình yêu đại đồng thế giới.
***
(Hết trang 101.)
(Tiếp đầu trang 87.)
Đốn Pháp Tu Thân
Một lời nói là luồng đốn pháp
Một câu văn là một Đạo tinh thần
Cho mỗi người sáng được tâm thân
Cho Tam Giáo quy lai Phật Quốc.
Gậy Kim Cang
Gậy Kim Cang là đường của Phật
Để phá rừng mê chấp chúng sanh
Dụng Phật Văn phổ bá đường lành
Ai có Đạo tự thanh tỏ ngộ.
Trồng Cây Đạo Đức
Trồng cây đức muôn đời không héo
Trồng hoa tâm muôn thuở khó tàn
Trồng cây lành Thiên Lý sáng quang
Trồng cây hạnh thành vàng bất tử.
Mở Điển Tâm
Thiên Lý mở ngồi thiền toả sáng
Mỗi giờ thiền làm bạn Chư Tiên
Đạo sáng ra đạo đức lương hiền
Học cõi Phật cõi Tiên hành Đạo.
Thấu Suốt
Ngồi tịnh trí hiện ra phong cảnh
Cứ ngồi nhìn theo ánh từ quang
Hiệp tâm vào định giới Niết Bàn
Mới thống nhất Chơn Quang của Phật.
Giữ Yên
Biết không nói giữ yên kết thể
Không lộ ra bộ máy Thiên Cơ
Hễ lộ nhiều Đạo Phép bị che
Nên bị hạ xuống tầng giới thấp.
Huyền Ẩn
Đạo là ẩn vô vi huyền ẩn
Thấy hiểu hồi im tiếng lặng hơi
Cho tâm linh học đó về Trời
Dứt cao ngạo tâm đời mới chết.
Mai Danh
Tu tới lúc diệt danh ẩn tánh
Để cho thân lập đảnh kết thân
Trong và ngoài hiệp Đạo tinh thần
Lòng vô ngã mới sanh Phật Tử.
Quy Tâm Tu Luyện
Biết số mệnh hiệp căn Thiên Xứ
Xuất thần ra đi dự lễ Trời
Và lặng thinh yên tịnh không lời
Tu quy ẩn đạo tâm mới mở.
Giữ Tâm Không Động
Nhìn thấy biết thiên hà vạn tượng
Chớ lộ bày hình tướng Như Lai
Tuỳ nhân duyên Thiên Số an bày
Mình lành Đạo thì mừng yên phận.
Giữ Nghiêm Luật
Nhớ học Đạo quy thanh hiệp tịnh
Theo chơn sư cho chánh lương tâm
Thì tự nhiên chơn lý mở mầm
Pháp Như Ý mở tâm trung chánh.
Ý Trời
Trời đã sắp Thiên Tôn Di Lạc
Xuống Hậu Thiên thành Thánh giảng kinh
Để khai nguồn chơn lý siêu linh
Cho môn đệ hồi căn tu tĩnh.
Nước Thánh
Nước Thánh mở Thiên Đàng Phật Quốc
Ở bên trong máy luật Tiêu Hà
Hễ hiền từ hưởng phúc thăng hoa
Còn gian ác thân tiêu thần diệt.
Học Đạo Tự Nhiên
Tu lành Đạo tự nhiên thấy biết
Và học theo Kinh Phật Tây Phương
Trời giao người Di Lạc mở trường
Dạy Pháp Phật Đông Phương chánh giáo.
Hoa Thiên Không
Hoa Thiên Lý nở trên Đất Phật
Trái Vô Vi kết quả Niết Bàn
Giữa Hư Vô một đạo hào quang
Kết thành một Chơn Tâm Di Lạc.
Tâm Bồ Tát
Phật Di Lạc là tâm Bồ Tát
Thấy khổ đời nên nguyện bước vô
Xây thành trường Thiên Lý cơ đồ
Giảng kinh phổ hoàng sanh độ chúng.
Ba Ngàn Điển Linh
Cửa Tây Trúc Ba Ngàn Thế Giới
Đều chiếu luồng chơn điển Thiên Kinh
Cho Thái Bình Di Lạc độ sinh
Thành kinh phổ đời Tân Minh Đức.
Di Lạc Tái Kiếp
Di Lạc vốn nhiều đời chịu khổ
Xuống làm người tu khổ độ sanh
Đã bao đời chịu khổ hy sinh
Nay tái thế đi tìm môn đệ.
Di Lạc Phổ Kinh
Lời văn Phật dùng gươm trí tuệ
Gốc là con Thượng Đế Thiên Tôn
Luồng Điển Thiên tỉnh các chơn hồn
Về tu dưỡng hồi quang Phật Quốc.
Nước Trời
Tiếng sấm nổ lập nguồn Trời Đất
Cho Thánh Nhân mở Nước của Trời
Xây Nước Trời phân định vị ngôi
Trời kiến quốc Đất Quần Tiên đại diện.
Cơ Di Lạc
Thiên Không mở Chư Thiên sẽ tới
Dùng phép linh rửa gội Nước Trời
Ai chơn tu vào đó lập đời
Ngươn Thánh Đức mở cơ Di Lạc.
Siêu Nhân
Thật lòng tu không có thù oán
Thật học Đạo thì sống an nhiên
Thật tu Tiên thì hiền linh giác
Thật uyên bác là bậc siêu nhân.
Khéo Đạo
Tu Đạo mà được khảo đảo, là đang bước vô biển Đạo.
Lái cho khéo để vào bờ, cửa Bỉ Ngạn Bồng Lai ngộ Đạo.
Luyện Đạo
Lúc khó khăn nên ung đúc tinh thần
Vì có khó Đạo Học mới nên thân.
Hàn Khổ
Lúc nạn khổ đừng đem lòng run sợ.
Vì run sợ sẽ tạo ra khiếp nhược.
Nhẫn Nại
Lúc ma khảo không nên nóng lòng.
Vì nóng lòng là bị ma dục tiêu diệt.
Tĩnh Tâm Mình
Lúc tu luyện đừng để tâm cầu chứng đắc.
Cầu chứng đắc là thắc mắc chưa thông.
Nghiệp Lực
Còn mê thì nghiệp quả nó nhồi.
Hết mê thì nghiệp quả cũng tan biến.
Không Nên Động
Nước động sẽ thành sóng, mượn gió để làm bão.
Tâm động sẽ thành nhân, kết quả để nhồi mình.
Tịnh Tâm
Tiến một bước nên yên một lý.
Tiến ba bước nên yên các lý.
Có giữ được sự tịnh yên thì Đạo mới phát, chơn lý mới từ từ hé lộ.
(Hết trang 93.)
(Tiếp đầu trang 67.)
CHƯƠNG NĂM
Lúc nầy các vị Phật ứng tâm cho tôi viết lại những câu thơ, hàm chứa nguồn Linh Pháp của các Quốc Độ ở Tây Phương.
Đạo Lớn
Đạo Lớn vô hình
Sanh dưỡng Trời Đất
Phật Lớn vô tướng
Độ muôn vạn vật.
Đức Lớn
Đức Lớn vô sắc
Dung chứa vạn vật
Nhân Lớn vô vi
Tu thành Chơn Phật.
Âm Ba
Đạo Lớn không lời
Mà nghe vang vội
Phật Học không văn
Tu thành Chơn Phật.
Thánh Đức
Thánh Đức Quân Minh
Di Lạc độ sinh
Thiện ác vô tâm
Thì đạt Chí Thánh.
Nước Lớn
Nước Lớn vô biên
Đạo Lớn không tâm
Phật Lớn không tánh
Thánh Lớn chí thành.
Nhà Lớn
Nhà Lớn không ranh
Tâm Lớn vô tranh
Đức Lớn vô thanh
Nhân Lớn vô phân.
Người Lớn
Người Lớn không tranh
Phước Lớn tu thanh
Hạnh Lớn dũng hành
Đạo Lớn trường sanh.
Việc Lớn
Việc lớn muôn dân
Hiệp khối tinh thần
Trụ đầy sức sống
Mà vẫn an nhiên.
Minh Hoà
Minh hoà vui hoà
Hạnh phúc Trời cho
Minh tâm kiến tánh
Đạo Lớn một kho.
Minh Đức
Minh đức dân ca
Dưới trên thái hoà
Hái hoa dâng Phật
Kỳ hương thơm thoa.
Minh Quân
Đạo Lớn Quân Minh
Xây Nước Thái Bình
Người người an hưởng
Nhà nhà quang minh.
Xứ Phật
Xứ Phật trổ hoa
Đua nở bốn mùa
An nhiên thanh tĩnh
Đạo đức đầy no.
Thánh Đạo
Thánh Đạo mở ra
Viết kinh Ba Nhà
Khai tâm mở tánh
Sống hoà dân ca.
Đèn Chơn
Chơn lý mở rộng lòng non nước
Thái Bình xây Biển - Thước Hoa - Đà
Trời mở bầu linh khí ban cho
Đạo đức lớn muôn nhà nhuần thắm.
Đời trở lại hạnh đầy phúc ấm
Đêm trăng Thu rọi thắm chơn tình
Ngày trời soi ánh nhật thinh thinh
Tình cao quý hoàng sanh độ chúng.
Hoa Thiên Lý đến kỳ trưng dụng
Pháp Liên Đài thành chiếc thuyền tâm
Đi Năm Châu rước khách chơn thành
Đạo tâm mở hướng thanh giải thoát.
Hạnh phúc đến mời nhân hiền rót
Thánh Tâm khai rước khách Bồng Lai
Đây trà Tiên kỉnh sĩ hiền tài
Áo đạo đức ấm lòng người Đạo.
Đức hạnh lớn Trời trao ta nhận
Cầm đuốc Trời soi thấu nhân tâm
Cơ vận hành Thiên Lý truy tầm
Ai mến đức vì nhân trở lại.
Bài Trường Thiên
Hoa phúc huệ muôn đời không héo
Lò vô vi rèn được Thánh Hiền
Ai là người kỉnh Đạo tu Tiên
Về đây hội linh huyền xướng nghĩa.
Đạo Trời mở kính mời nhân sĩ
Tiếng pháo Xuân đón khách Thánh Hiền
Mỗi người tu theo pháp Thầy truyền
Nay tới lúc kết Liên Hoa Pháp.
Pháo bông trổ sáng ngời Xuân mát
Hoa tâm khai mở hội đón Trời
Còn tu thân là hạnh của người
Đường Thiên Lý từ tâm đón lấy.
Cảnh minh triết Đồ Thiên sẽ thấy
Áo hiền nhân Trời đã sẵn may
Cảnh Tiên Bồng Linh Bảo Kim Giai
Trên Đất Phật Bồng Lai rộ nở.
Nhìn Nước Phật thông đường kim cổ
Vui thanh bình Quốc Độ mở ra
Trên toà sen Bảo Pháp Long Hoa
Tâm tự tỉnh Nam Kha mộng thế.
Phật duy tâm Thánh Nhân Linh Thể
Đạo truy tâm Thượng Đế dựng xây
Đức Quân Minh Đạo Học của Thầy
Nhân hiển Thánh Rồng Mây lập hội.
Ai là gốc Bồ Đề chung cội
Ai là Tiên ra để lập đời
Ai là người con của Phật Trời
Xin đón lấy tình yêu Vũ Trụ.
Hửu Xạ
Hoa còn toả các mùi hương
Sao người tu Đạo không thương nhau là?
Phật Tiên Thần Thánh một nhà
Càn Khôn Vũ Trụ một Cha trên Trời.
Thật Tu
Thật sen không sợ nhiễm bùn
Người tu đoàn kết chấn hưng Đạo nhà
Đạo nào cũng gốc Trời Cha
Linh Hồn ai cũng vốn là căn Tiên.
Nâng Đỡ
Bá tòng không sợ tuyết sương
Thật tu xin nhớ nhịn nhường quý nhau
Người đi trước, đỡ người sau
Không lòng, dư luận thấp cao có Trời.
Kinh Vô Tự
Xưa kia Tam Giáo một nhà
Tại người chia bảy chia ba lạc dần
Kinh Phật vẽ rắn nhiều chân
Thật ra Vô Tự một luồng điển Thiên.
Cõi Niết Bàn
Kinh không lời Thánh Nhân cảm ứng
Đạo không văn mượn chữ để đời
Cõi Hư Không Thiên Đạo không lời
Niết Bàn vốn phi lai phi tưởng.
Thiên Đạo
Đạo ở trên Thiên Không huyền sáng
Khí Hư Linh thanh thản truyền ban
Kết thân chuyển lý Huyền Hoàng
Đi trong Tam Giáo chỉnh trang Bồ Đề.
Thế Giới Ba Ngàn
Cõi Chư Phật vô vi thanh tịnh
Phật vô sanh chơn tánh bổn lai
Ba Ngàn Thế Giới là đây
Kết thành nhà lớn Tây Phương đại hùng.
Tam Thiên
Trời không sắc khí linh tua tủa
Phật vô hình là của Như Lai
Trời thanh, Phật tịnh dựng xây
Làm Cha, làm Mẹ, làm Thầy độ nhân.
Huynh Đệ
Trần gian khác mẹ khác cha
Nhưng trên Thiên Quốc hồn là anh em
Trăm họ đi xuống Hậu Thiên
Trước kia vốn thật là Tiên con Trời.
Hai Cha Mẹ
Mỗi người có hai mẹ cha
Một đời một Đạo giao hoà tứ ân
Linh Hồn cha mẹ tinh thần
Còn phần thể xác người trần sanh ra.
Nguồn Cội
Xưa kia một gốc Bồ Đề
Phân ra Tam Ngũ để chia Ngũ Hành
Đời nay Tam Giáo quy thanh
Ngũ Chi hiệp Đạo người thành Thánh Tiên.
Trao Sớt
Trao qua sớt lại cho đầy
Chơn tu nên biết dựng xây đức lành
Tâm sạch đạo đức nó sanh
Như cây kết trái chúng sanh hưởng dùng.
Chơn Sư
Dù người nhỏ được mở tâm
Nhờ họ nhiều kiếp nhiều năm tu trì
Xưa kia Hạng Thát bảy niên
Làm thầy Khổng Tử Thánh Nhân thất tuần.
Sư Môn
Chơn sư không chấp tuổi tên
Ai người thành Đạo bước lên làm Thầy
Địa Tiên chấp tuổi, chấp bài
Thiên Tiên phục mạng hườn lai Tiên Đồng.
Lột Xác
Lên cao lột xác lột căn
Cho dù ngàn tuổi cũng thằng bé con
Kim Thân be bé tinh thông
Khôn ngoan trí tuệ hơn hồn thế gian.
Bỏ Xác
Kim Thân vào cõi Đại La
Nhìn thấy phàm xác trôi đà trên sông
Được vậy mới thật trống lòng
Phàm thân đốt sạch mới người Đạo cao.
Vô Tâm
Xuống lên các cõi Thiên Không
Đừng để tâm động nhân thân kéo về
Tâm - Không học Đạo Bồ Đề
Thông công là được hiệp về Thiên Không.
Đạo Vô Vi
Đạo Trời sau trước vô vi
Chơn tu theo đó thực thi Đạo Trời
Cõi Không, không sắc không Trời
Mà là Phật Tổ nắm ngôi Thiên Đàng.
Thất Chơn Giải Thể
Người luyện Đạo bảy lần lột xác
Trả cho Trời bảy thể Thất Chơn
Quy lai Phật Quốc nguồn căn
Thân phàm xác giả lột xong mới thành.
Phật Quốc
Cửa Tây Trúc khí linh đầy nhóc
Viết ra nguồn văn học vô vi
Ba ngàn cuốn sách Mô-Ni
Ba ngàn thế giới Kinh Thi của Trời.
Tứ Linh Tâm
Tôi với Phật vốn là huynh đệ
Tôi với Trời kết thể cha con
Tôi với Đất mẹ dưỡng sanh hồn
Cõi Vô Cực Phật Tôn là Thầy.
Chơn Như
Cửa không động Phật Tiên qua lại
Nơi Niết Bàn trai gái vô tư
Tới lui hình thể Chơn Như
Thanh thanh tịnh tịnh vui cười đón đưa.
Thành Đạo
Nam thành Đạo thuần Dương quy túc
Nữ thành Tiên nhục dục khô thanh
Trên bộ đầu toả sáng Đạo lành
Mới là bậc thừa thanh thành Đạo.
Gươm Trí Tuệ
Phật và tôi, là hàng con thảo
Biết theo Thầy Đại Đạo chấn hưng
Giúp muội huynh phá đám văn rừng
Vượt biển khổ ra ngoài văn tự.
Cây Nguyên Linh
Cây Nguyên Linh trên Trời Ngũ Lão
Vốn là cây Linh Bảo của Trời
Mỗi chúng sanh ở đó lâu rồi
Nay thăm viếng rõ Trời trồng giống.
Tu Dưỡng Nguyên Linh
Cây Nguyên Linh tưới bằng nước pháp
Do các hàng Bồ Tát chăm coi
Khí Tiên Thiên Linh Thể hẳn hòi
Nhìn cây Đạo biết nhân tại thế.
Nhìn Cây Biết Nhân
Phật nhìn đó biết nhân linh kết
Trời nhìn đây thấu lộ Thiên Cơ
Cây của Trời trồng đó trơ trơ
Trời lấy đó lập ra số mệnh.
Chơn Linh Tu Luyện
Người tu hành cây xanh hoa trổ
Toả mùi hương đức vượn xanh tươi
Trên thân cây toả sáng khí Trời
Linh Quang Phật sáng ngời đạo lý.
Cây Dưỡng Đạo
Người sắp thành Thiên Cang Thiên Lý
Cây trổ hoa kết quả xum xê
Ở Nước Trời trồng giống Bồ Đề
Mỗi Linh Mệnh có thân tại thế.
Sa Sút
Người không tu thấy cây yếu bé
Còn có cây té ngữa nằm ngang
Cũng như người đạo đức chưa an
Nên Linh Mệnh yếu dần héo hắt.
Kim Thân
Cõi Vô Cực khí linh ngùng ngụt
Về nơi đây kiến trúc tinh thần
Để linh hồn sanh sản Kim Thân
Thân đó mới là thân bất diệt.
Hồn Vía Tương Hội
Hồn vía hội kết thành minh triết
Âm Dương giao học Đạo giảng kinh
Không khác gì đạo đức gia đình
Chồng với vợ luận kinh bàn kệ.
Âm Dương Kết Thể
Dương giao điển kết thành mạch lý
Âm kết hình kết sắc vào nhau
Mới tụ thai kết đảnh an lư
Sanh Thánh Thể nhờ Âm Dương kết.
Phật Tử
Tròn tròn sáng đó là ngọc quý
Tên Mô Ni chơn lý Phật Trời
Còn Hà Sa sáng sáng ngời ngời
Nó vốn của khí Trời Vô Cực.
Án Mây Lành
Ngũ Khí mở kết thành Hoàn Vũ
Án mây lành Vũ Trụ sanh ra
Người xuất hồn theo đó về nhà
Cõi thanh tịnh Đại La Chơn Thức.
Đường Trời
Thiền định thấy trên đầu sáng rực
Đó là luồng sinh lực Chúa Cha
Nơi Thiên Không chiếu xuống toả ra
Là mở lộ khai đường Thiên Xích.
Trí huệ Phát Ra
Thường toả sáng Thiên Không Đạo hiệp
Âm Dương kề giao tiếp điển kinh
Để người tu theo đó hồi sinh
Càng dưỡng Đạo thần minh trí sáng.
Tu Luyện
Tu đến đây không còn tu niệm
Mà luyện thân kết thuốc Kim Đơn
Ngọc Mô Ni nhờ lửa đốt nung
Mới mở trí đại hùng của Đạo.
Đạo Pháp
Đạo nhờ pháp minh tâm kiến tánh
Pháp nhờ sư chỉ rõ trúc cơ
Thường hộ tinh chiếu điển hộ phò
Môn đệ mới tỏ đường thông Đạo.
Tầm Chơn Sư
Lòng tin Đạo tầm sư ngộ xuất
Biết máy Trời nắm luật Thiên Cơ
Dạy môn đồ chỉ rõ văn thơ
Chỉ đường Đạo ngày giờ biết kết.
Kết Hiệp
Muôn kết được Đạo cao Vô Cực
Phải tầm cho ra bậc Vĩ Nhân
Ấy là người cầm lý tinh thần
Học tỏ ngộ thiên chân đạo lý.
Chánh Đạo
Cửa không động chơn tu qua lọt
Còn phàm tâm là rớt bên lề
Thật chánh tâm chánh gốc Bồ Đề
Mùi tục luỵ không mê trong dạ.
Đạo Trưởng Thành
Người học Đạo noi gương tòng bá
Mùa kệ mùa cây lá xanh tươi
Sống an nhiên hưởng khí của Trời
Lòng thanh tịnh nên không bi luỵ.
Khôn Đạo
Học Đạo biết góp tâm từ điển
Luyện Đạo là tiếp khí Hạo Nhiên
Sống an nhàn để dưỡng khí Thiên
An mệnh thể cho an đạo đức.
Nguyên Lý Kết Duyên
Phật nhờ định Kim Thân kết thể
Tiên nhờ thanh Thượng Đế triệu hồi
Người nhờ thiền cho tĩnh ba ngôi
Mới sanh Thánh vào ra Tam Giới.
Pháp Thuỷ Lưu Hành
Lấy Pháp Thuỷ rửa bầu Vũ Trụ
Dùng Pháp Luân tẩy rửa trược ô
Dùng Huệ Quang mở cửa bước vô
An dưỡng Đạo Hư Vô chơn lý.
Luyện Pháp Môn
Luyện pháp môn quy thanh lọc Phật.
Trước giải cho bịnh tật tiêu tan
Sau tinh thần mở cửa Tam Quan
Quy không động tâm linh tự kết.
Biết Tu Thân
Phật không nói dùng pháp để tịnh
Tiên không lời ẩn kín lo tu
Người biết rồi hạ thủ công phu
Mới đến được Đại La Tiên Giới
Tận Tường
Học Đạo hỏi Minh Sư cho rõ
Đâu là đường là ngỏ Thiên Không
Mình biết rồi giữ kín ra công
Mới đạt Đạo bước vào Tam Giới.
Mệnh Đạo
Mỗi Chơn Sư cõi Trời chuyển thế
Là thay Trời thay Phật hoá duyên
Ở trong mình đầy đủ linh thiêng
Nên cầm Đạo phổ truyền pháp lý.
Nghiệm Văn Thấy Đạo
Người thành Đạo cầm nguồn Bảo Pháp
Đó là người uyên bác làu thông
Huệ Quang soi thấu rõ trần hồng
Lời minh giải thần thông hiện rõ.
Thành Đạo Giảng Kinh
Bậc thành Đạo giảng Kinh Linh Bảo
Thánh Tiên Thần còn xuống ngồi nghe
Nên điển Trời tỏ sáng giải mê
Pháp lực đó Như Lai Chơn Thể.
Gươm Chơn Phát Huệ
Một câu văn là đường gươm Huệ
Cầm gươm thiêng múa chỉ vài bài
Mà người nghe mở Pháp Như Lai
Tánh mê muội ngàn năm chặt sạch.
Người Tỏ Đạo
Ai xem kinh mà lòng tỏ ngộ
Ấy là phần Thiên Số nở hoa
Nên kiếm bầu Pháp Thuỷ tưới cho
Sẽ đạt Đạo trở thành Bồ Tát.
Kinh Vô Tự
Mượn Pháp của Hư Vô làm giấy
Mượn Tâm của Trời làm viết thần thông
Mượn Pháp Linh viết xuống thành dòng
Mượn duyên ngộ viết ra thành chữ.
Linh Ngữ
Còn thuyết pháp Phật Ngôn Linh Ngữ
Ban lời lành của các Thiên Tôn
Đạo nhà Nam Châu Hớn thanh chơn
Nhờ Di Lạc viết kinh phổ hoá.
Thuyết Pháp
Phật thuyết pháp mở nguồn chơn lý
Dùng Huệ Quang Pháp Thuỷ truyền ra
Gom giống linh của cõi Di Đà
Truyền Phật Tánh khai thông từ điển.
(Hết trang 86.)
(Tiếp theo trang 63.)
"Còn Diệu Quang của Thái Bình, từ đây hiệp với luồng điển Thiên Không của Thầy trực tiếp làm việc với tâm thức của con và ba ngàn luồng hào quang của Chư Phật lên xuống, qua lại, để tiếp rước các vị môn đồ tu luyện khắp thế giới mà gom vào Nước Phật."
"Thầy biết con đã khổ tu nhiều kiếp nhiều đời, dám xông pha vào trong biển khổ để cứu người độ chúng, thuyết pháp giảng kinh, tu luyện viết kinh không giờ an nghỉ. Còn phải cần cù lao lực để nuôi sống các con khôn lớn thành người. Thật là một hạnh quý vô biên, tâm thanh sáng đức, làm cho Trời Đất cảm động, Tiên Phật hài lòng mà ra cơ lập cho con một Xá Huệ Quốc để đáp lại sự khó nhọc của con đã trải qua. Từ đây Thầy chuyển ba ngàn môn đệ của Tam Giáo đã đầu thai xuống trần gian và đang tu lỡ dở trong các lò của Đạo Gia, và một số đã thành nhà lãnh tụ, triệu phú, và thành những văn tài nghệ sĩ, bác học kỹ sư. Chúng nó sẽ tuần tự tầm đến con để học Đạo và sẽ giúp con các công việc do Thầy chuyển xuống. Anh trước làm sư, em sau làm đệ, mà chia nhau phụng sự nhân sanh cùng lo cái cơ của Thầy đưa xuống."
"Từ đây con chỉ dạy và hướng Đạo cho các sư đệ, sư muội của con thành chánh quả. Con là vị Phật mang Thánh Tâm của Trời để đi phổ độ chúng sanh. Thầy ban luồng điển Vô Cực của Đại Đạo qua con mà để cho con ban phát ra cho các môn đệ đồng hưởng.
Thầy chuyển thanh quang
Xuống cõi Huyền Hoàng
Con thu Chơn Thánh
Cho các môn sinh
Hội tụ Chơn Thanh
Tam Giáo hội thành
Thần Quang Diệu Tướng
Hào quang chưởng dưỡng
Học Pháp Như Lai
Mở cửa Thiên Đài
Về đây lễ Phật.
Chơn Ngôn Thầy Dạy
Thầy chuyển tâm Thầy xuống thế gian
Quần Tiên khai hội mở Niết Bàn
Ra cơ phổ hoá cơ Di Lạc
Cứu độ muôn loài đạt pháp quang.
Khai mở điển tâm Đạo mới linh
Hào quang Thầy độ sáng khinh thanh
Chung nhau an dưỡng cơ Thầy phổ
Đắc pháp hườn không Đạo mới thành.
Thành Đạo tâm quang sáng ngời ngời
Huệ Tâm nhìn thấu Đạo của Trời
Ra vào lên xuống Thần Tiên hội
Xá Huệ Phật Gia dựng giữa Trời.
Nhà cửa đủ đầy với Chư Thiên
Độ đời hành Đạo đạt chơn truyền
Thầy ban linh khí đồng chung hưởng
Chơn lý Thầy trao, pháp con truyền.
Tôi đáp lại bài thơ:
Cảm Ơn Thầy
Con đến Tây Phương lập Niết Bàn
Nhờ Thầy điểm Đạo trợ hào quang
Đưa con đi tiếp luồng Thiên Điển
Hiệp với Chư Thiên Đạo ba ngàn.
Cảm ơn Chư Phật ở Tây Phương
Dùng phép thần thông mở học đường
Xá Huệ kết thành Di Lạc Quốc
Từ đây có Nước ở Tây Phương.
Cảm ơn linh khí của Thầy ban
Kết lại thành thân Phật Niết Bàn
Ngọc Phật Thầy cầm Chơn Mệnh Đạo
Thái Bình tâm Thánh hiệp Chơn Quang.
Chiến sĩ Hư Vô con mở trường
Giáng trần khai mở Nước Tây Phương
Thầy cùng Thiên Địa giao trách nhiệm
Tiên Thánh ra phò ngôi Pháp Vương.
Nhớ dẫn môn sinh trở về nhà
Khai nguồn Linh Pháp lập Long Hoa
Hồ Trời ban xuống nguồn Pháp Thuỷ
Khai mở Chơn Thần hiệp Chúa Cha.
Thầy kêu tôi chào ba ngàn vị Cổ Phật. Ba ngàn vị Cổ Phật chào lại và chúc lành cho Di Lạc xây được Nước Lành Phật Quốc ở Tây Phương, để đồng đứng vào hàng Cổ Phật mà lãnh đạo tinh thần, mở trường Đạo Đức, cứu thế độ nhân. Các vị Cổ Phật đồng hứa với Thầy là hợp tác giúp cho Thái Bình xây thành Trường Lớn cho Tam Giáo mở Đạo cứu đời trong kỳ Kỷ Nguyên Tân Tạo.
Thái Bình đáp lời, cảm ơn Thầy và Chư Vị Cổ Phật đã giúp đỡ cho Thái Bình có cơ hội đóng góp vào cơ Đại Tạo.
Ba ngàn vị Cổ Phật chào Thầy và tôi, rồi trở về Quốc Độ. Còn Thầy đưa tôi về lại Thiên Không, Kim Quang tôi về lại thể xác.
(Hết trang 66.)
(Tiếp đầu trang 52.)
CHƯƠNG BỐN
Thầy hoá ra một Bảo Liên Toà chín phẩm - Bạch Ngọc Liên Đài - và bảo tôi ngồi vào trong rồi Thầy đưa tôi vào Ba Ngàn Thế Giới của Chư Phật. Tôi ngồi trên Liên Đài, nhìn bốn phương tám hướng rộng thinh thang bao la vô tận, ánh sáng toả khắp Ba Ngàn Thế Giới. Bên trên nền trời màu xanh, Thế Giới Liên Châu hiện ra trước mặt. Cảnh trí màu sắc và hào quang vô cùng tươi đẹp. Thế Giới Ba Ngàn hiện ra lớn rộng. Sức con người dự đoán từ thế giới nầy nối với bên kia như cái hoa liên thể kết nhau, các cầu vòng bằng hào quang nối nhau liền liền. Tôi cảm ứng ngâm bài thơ:
Thế Giới Ba Ngàn
Ba Ngàn Thế Giới sáng uy linh
Thật cõi Tây Phương đất Thái Bình
Chiếu rọi rực Trời Tây Phương Phật
Liên Châu Đạo Lực sáng quang minh.
Thầy cười con rõ cõi Tây Phương
Thế giới chơn tu của Phật Đường
Thầy kết thành nguồn Linh Bảo Phật
Các hồn siêu thoát sống an khương.
Tôi thật mừng vui được về đây
Thầy cho du lịch khắp nơi nầy
Ngồi chung Liên Toạ nghe Thầy dạy
Trí Huệ tròn vo sáng đủ đầy.
Thầy nắm tay tôi chỉ xa xa
Cõi con thấy đó cõi Di Đà
Vào trong chút nữa con sẽ thấy
Phật Cổ tu hành kết Liên Hoa.
Thầy đưa tôi một vòng xem cõi Di Đà. Thì ra các luồng linh khí thành cầu vòng là do các chơn căn Bồ Tát, La Hán và các vị Tỳ Kheo ngồi thiền định niệm Tâm Pháp, Tâm Kinh, cho linh tâm liên kết khí linh của Thầy mà thành những cầu vòng hào quang khắp nơi, trông đẹp mắt vô cùng. Tôi lại cảm ứng ngâm tiếp bài thơ.
Di Đà Ngọc Phật lý cao sâu
Tỉnh thức tâm trần nối nhịp cầu
Chơn lý vô hình đây nước Phật
Cho người tu dưỡng Mô Ni Châu.
Nước Phật Đài cao toả sáng loà
Nhà nhà liên kết tợ Kim Hoa
Sắc vàng óng ánh Hư Vô ảnh
Kết lại thành tâm Phật Di Đà.
Rồi Thầy lại đưa Liên Đài bay một lát nữa. Rồi tôi thấy có một luồng ánh sáng bảy màu chiếu ra mãnh liệt.
Thầy nói: "Cõi nầy là cõi Nhiên Đăng Cổ Phật, cho nên luồng Kim Quang chiếu ra bảy màu Xá Lợi quay rực rỡ, chiếu lên Thiên Không mãnh liệt."
Nghe Phật giảng kinh nước Nhiên Đăng
Hôm nay trước mặt sáng giăng giăng
Nhà nhà như ngọc Kim Thân ẩn
Mà cứu độ sinh khắp cõi trần.
Thầy bảo Tây Phương giống đất lành
Vào ra Tam Giới sống quang minh
Nước nào cũng có hào quang Phật
Toả rộng tình yêu sống Thái Bình.
Thầy lại tiếp tục cho Liên Đài bay đi. Và cứ tiếp tục bay như chiếc phản lực bay trên không trung. Tôi ngồi nhìn xuống phía dưới thật đẹp vô cùng. Mỗi phút Thầy cho Liên Đài gia tăng sức hút, nó bay thật nhanh xuyên qua các luồng hào quang, san sát tua tủa ra. Tôi không đủ định lực để ngó nhìn được nữa, tôi nhắm mắt lại và ngồi dưỡng thần, nhưng bên tai vẫn nghe được sức hút vo vo vù vù, xé gió tung mây mãnh liệt vô cùng.
Sau khi Liên Đài bay giáp vòng Thế Giới Ba Ngàn, thì Thầy an trụ giữa không trung giảng Kinh Vô Thượng cho tôi lãnh hội. Càng nghe Thầy giảng bao nhiêu thì Minh Cảnh Đài hồi quang phản chiếu lại bấy nhiêu. Tôi hiểu ra, đây là xứ của tôi, an dưỡng tịnh tu một vòng ba ngàn năm ở đây trong cảnh giới Định Huệ của Tây Phương Phật, và bảy trăm năm tu dưỡng trong lò nguyên khí cùng Trời Đất, cùng chư vị Thiên Tôn. Thì ra người có diện mục, vật có bổn lai là ngộ ở nơi nầy.
Thầy dạy: "Ba Ngàn Thế Giới Tây Phương là cái trường lớn của Chư Phật. Mỗi Xá Huệ Quốc là một vị chứng quả thành Đạo, rồi đem cái tiểu Thiên Địa của mình về đây xây dựng thành một cái phúc điền ở cõi Phật. Sau khi vãng cảnh, hết nhiệm vụ ở trần gian, thì về đây tu dưỡng thành một Xá Huệ Quốc, thành một nước Phật. Rồi lại phân thân đầu thai làm nhân loại tu dưỡng đắc Đạo, và đi rước các chúng sanh mà mình độ được đem về đây tu dưỡng để thành chánh quả. Vì thời gian của nhân gian có hạn, cho nên Thầy không thể cho con dạo hết Ba Ngàn Thế Giới. Thầy chỉ cho con thăm coi những vị Phật có liên quan đã hướng độ chúng sanh mà thôi. Nếu đi cho đủ hết Ba Ngàn Thế Giới thì con phải mất ba ngàn năm mới đi giáp vòng. Vì cõi nầy rộng lớn vô cùng, cho nên Thầy làm phép thâu đường mới mau vậy. "
"Thầy cho con đi một vòng là để cho Linh Thể của con tiếp được ba ngàn linh khí của Chư Phật đang tu dưỡng, để tạo thành một vòng ba ngàn Hộ Pháp Thiên Vương, để độ con giảng kinh thuyết pháp. Thầy cho con hưởng luồng điển của Chư Phật để hào quang của con mau lớn mạnh. Vì cơ nầy Thiên Địa Tân Tạo lại, cho nên ai tu lên cao cũng được hưởng quả vị tốt lành, đó là nhờ Thầy đích thân dạy dỗ và ban khí linh của cõi Vô Cực cho luồng Chơn Quang của con trưởng thành mau lẹ. Có như vậy mới gọi phép của Thầy là Vô Thượng Chí Tôn. Cho nên khắp Chơn Tiên trong Vũ Trụ gặp Thầy đều tự thân làm lễ cảm ơn nhận được linh khí của Thầy. Sau nầy con đi hành Đạo, các Linh Căn mở được Linh tâm thấy hào quang của Thầy trên Thánh Tâm của con thì nó tự động làm lễ chào con đó là ra mắt Phật Tổ Như Lai đó vậy. Kể từ đây con đại diện Thầy và Đại Đạo trong Tam Giáo."
Hoa Quang Thầy hướng tâm
Cho Thánh Bút Thái Bình
Xây Kỷ Nguyên Di Lạc
Dựng đời tân văn minh.
Pháp Thuỷ trong Tam Thiên
Chiếu cho cả nhân hiền
Vào đây an đời mới
Của cõi Phật Quần Tiên.
Trên Liên Đài nhìn ra
Khắp Chư Thiên Ba Nhà
Đồng ra chào Anh Thánh
Lập Liên Đài Long Hoa.
Nước Phật
Ba Ngàn Thế Giới Phật Quang Thân
Thanh tịnh từ bi rọi các tầng
Tu thành chánh quả về đây hưởng
Xá Huệ Phật Quốc Đạo góp phần.
Không còn văn tự mới minh xa
Nhìn khắp Trời Tây ánh sáng loà
Phật hội Tam Điền xây Huệ Quốc
Nhà nhà an lạc đắc Tâm Hoa.
Cuộc sống nơi đây rất tịnh thanh
Hoa cười chim nói Đạo, đất lành
Như Lai dạy dỗ ba nguồn Đạo
Trở lại nhà xưa Đạo mới thành.
Chư Phật nhìn tôi vẫy tay chào
Lễ Thầy rồi hát lý cao sâu
Thầy cười Thầy bảo con nhìn rõ
Học Đạo Thần Tiên lễ mới mầu.
Thiên Đàng giữ lễ Đạo cao minh
Giao tiếp cùng nhau nghĩa đệ huynh.
Trên có chánh toà Thầy an ngự
Phật Tiên đồng tịnh ngồi nghe kinh.
Thầy giảng Chơn Kinh Pháp sáng loà
Ba ngàn Chư Phật ngự Kim Hoa
Tịnh lòng nghe giảng Kinh Linh Bảo
Phật Pháp càng nghe tự bước vô.
Chơn lý là Không chẳng có hình
Tiếng Trời vang vọng Đạo thanh thanh
Cho con ra mắt hàng Chư Phật
Thánh Bút trần gian Phật Thái Bình.
Đến đây, ba ngàn Chư Phật, mỗi vị tặng cho tôi một bảo vật, rồi cùng nhau chỉ lên Hư Không. Khi ấy bổng hiện ra một Phật Quốc mới trông thật là đẹp, và hào quang toả sáng trưng.
Thầy cười vang cả không trung và nói: "Lành thay! Lành thay!"
Thầy kêu tôi bước vào Xá Huệ Quốc ấy. Tôi liền bước vào thì thấy ba ngàn phép báu của Chư Phật kết thành một quả Liên Cầu. Trong đó chứa đầy đủ dinh thự, đường xá, nhà cửa, cây lành quả ngọt, Rồng, Phượng, Bạch Tượng, Kim Qui, Sư Tử, Ngựa Trời, có hồ sen thật to lớn, có cá lội, có rừng xanh chim hót, có suối chảy rì rào. Càng đi sâu vào, thì thấy có ba ngàn Chư Thiên đang coi sóc Xá Huệ Quốc nầy. Đi đến đâu các Chư Thiên đều làm lễ ra mắt tôi. Xung quanh cây trái xum xuê, núi non hùng vĩ.
Thầy kêu: "Thái Bình con, con thấy bấy nhiêu đó có đủ cho con an hưởng chưa?"
Tôi cảm động quỳ xuống cảm ơn Thầy và ba ngàn vị Cổ Phật đã xây cho con một Nước ở Tây Phương, nó lớn rộng vô cùng, uy nghi lẫm liệt.
Thầy dạy: "Từ nay con có Quốc Độ là nhà lớn ở Tây Phương Phật rồi vậy. Còn ba ngàn vị Chư Thiên đó là do ba ngàn vị Phật cho ba ngàn vị đệ tử ở đây canh giữ Xá Huệ Quốc cho con và cùng là người nhà để nghe sự sai khiến, dạy dỗ của con đó vậy."
Nói xong, Thầy vẫy tay một cái thì tôi chia làm hai cái thân và một viên ngọc bằng kim cương.
Thầy dạy: "Từ đây con có ba cái Kim Thân. Một là viên Bạch Ngọc, Thầy đem về Hư Vô sống chung tu dưỡng bên Thầy. Hai là Kim Thân Di Lạc và ngự ở Niết Bàn Phật Quốc để xây dựng chỉnh đốn và dạy Đạo phổ kinh cho các Phật Tử sắp về Nước Phật học Đạo. Ba là Thần Quang Diệu Tướng của Phật Di Lạc là chứng quả Thánh Tâm cho con. Đó là chia ra làm ba thân để dạy các môn đồ của nhà Phật sắp về đây học Đạo. Còn ba ngàn Chư Thiên sẽ là ba ngàn vị Phật Sự đưa rước các Linh Căn tu luyện xuất Thần trong kỳ nầy, đều do các vị đưa về Thiên Không do Di Lạc huấn Đạo."
"Còn Thái Bình, con ra vào trong trần gian là để viết Kinh Mới của lò Trời, kho Phật đưa xuống dạy chúng sanh tu hành đắc pháp mà về Đất Thiên Nước Phật của Thầy xây dựng tại thế gian. Sau khi tu luyện làm việc cho thuần, rồi về đây an ngự cảnh Trời, thế giới của ba ngàn Chư Phật."
"Còn con cầm Ngọc Như Ý của Trời vào đời khai sáng đạo đức của Thầy, cho các hàng môn đệ của Tam Giáo tu theo con mà về đây gặp Phật. Từ đây những bộ kinh nào ra đời, trước sau Thầy sẽ chuyển cho con đem xuống viết ra cho nhân sanh đồng học, đồng tu. Kỳ nầy Thầy ban một hồng ân xuống thế gian bằng Kinh Pháp của Phật. Đến lúc Thầy phải lộ bày ra cho nhân sanh đồng hưởng cái Đức Lớn của Thầy, cái Đạo Lớn của Trời trước khi Thầy tân tạo lại Càn Khôn Vũ Trụ."
Thầy ngâm bài thơ:
Hỡi trong Hoàng Vũ
Kinh cũ bỏ đi
Nay đến thời kỳ
Thầy dạy Kinh Mới
Để sáng lập đời
Thiên Địa trở lại
Di Lạc truyền tới
Thái Bình viết ra
Thánh Bút Thiên Toà
Sáng loà Tam Pháp
Ai in truyền đạt
Sẽ hưởng phước Trời
Đến lúc lập đời
Long Hoa phong thưởng
Lịnh Trời đưa xuống
Ba ngàn Chơn Kinh
Để xây Thái Bình
Nhân sanh học Đạo
Trên phò Thiên Bảo
Dưới biết tu thân
Khai mở Ngươn Thần
Chánh thân chánh pháp
Đem kinh truyền đạt
Siêu thoát Cửu Huyền
Đắc Thánh thành Tiên
Vào miền Phật Quốc
Lệnh Trời đã sắp
Di Lạc phổ kinh
Mở Đạo Thái Bình
Tân Dân Minh Đức.
(Hết trang 62.)
(Tiếp đầu trang 46.)
CHƯƠNG BA
Thầy đưa tôi vào cõi Niết Bàn Chơn Không Đại Định, ánh sáng ngợp Trời, hào quang tua tủa. Tự nhiên Thầy và bảy mươi hai Diệu Tướng biến dạng, và luôn cả hình tướng Kim Thân của tôi cũng biến dạng, chỉ còn lại Huệ Tâm nhìn Thầy.
Thầy cười to, vang cả Vũ Trụ Quang và nói: "Đến đây Thầy cho con chứng Đạo - Chơn Đạo Vô Hình. Chơn Phật Vô Tướng."
Tôi nhìn lại thấy tôi là một viên ngọc kim cương Diệu Quang Di Lạc, sáng rỡ và toả ra chín luồng kim quang bên trong và hai mươi bốn Diệu Tướng bao tròn như một cái cầu vòng tròn vo, bên trong trống rỗng, thông suốt vô cùng. Tôi lại nhìn Thầy chỉ thấy hoàn toàn một khối Đại Linh Quang tròn tròn, xoay xoay rộng lớn và bảy mươi hai luồng khí linh sáng rực Trời Đất.
Thầy lại tiếp tục dạy.
Thầy gọi: "Thái Bình con, con đã đại triệt, đại ngộ rồi vậy. Xưa nay Đại Đạo vô hình, pháp lực của Càn Khôn Vũ Trụ là do Thầy nắm giữ. Ở nơi đây, trên Thầy coi cõi Niết Bàn Vô Cực chí linh chí diệu, dưới Thầy sanh dưỡng Càn Khôn Vũ Trụ và nhân loại vạn vật, nhưng lại vô thinh lặng lẽ. Hôm nay Thầy đưa con về đây là để chứng Đạo Vô Thượng cho con. Trước đây con là viên ngọc tu luyện bên Thầy khoảng ba ngàn bảy trăm năm. Sau đó đi chuyển thế đầu thai làm chúng sanh để tu cái Nhân Thiên Đạo Đức. Hôm nay con về lại đây cũng như đò xưa trở về bến cũ, để nhận rõ bản thể nguồn cội của mình. Con đã thấy rõ bản tánh Như Lai của con, nó là vô hình vô tướng, trước sau là một viên ngọc vô giá của Trời, chí linh chí thiện. Còn hai mươi bốn pháp tướng là do con tu luyện được vòng Thiên Cang của Trời và hình Địa Chi linh khí của Đất mà tạo ra hai mươi bốn vì sao Hộ Pháp Vương Tinh Bồ Tát, bao phủ Bạch Ngọc Diệu Quang của con. Còn chín khí phát ra là chín luồng chơn khí của hai cung, bảy cõi hiệp thành. Con về lại đây là con đã chứng Đạo của Thầy, Huệ Tâm tràn đầy sáng đủ, pháp lực vô biên, hiệp cùng nguồn Đạo Lớn của Thầy rồi vậy. Chơn Phật của con vốn vô hình, sau trước, dưới trên tròn đầy trống rỗng, pháp lực Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là đây. Còn con nghe được tiếng của Thầy giảng kinh, truyền tâm mà dạy con, tuy là có người ngồi kề bên con cũng không nghe thấy gì hết. Đó là tiếng nói của lòng Trời, nó là Âm Ba Đại Hồn điểm Đạo chứng tâm cho người tu thành chánh quả. Từ đây, Đạo Tâm của con là chơn lý của Thầy, là Diệu Tướng thứ bảy mươi hai của Thầy, cho đầu thai xuống trần để tu thành chánh quả mà hướng Đạo cho quần sanh vào Nước Trời của Thầy khai mở. Vì con là Diệu Quang thứ bảy mươi hai của Thầy nên các vị Phật gọi con là Em Út của cõi Vô Cực là vậy. Các vị Thiên Tôn, Phật Cổ là những đứa Con Lớn của Thầy tu thành chánh quả, về coi các cõi Tây Phương Cực Lạc và coi các cõi Đại La Tiên Giới nhiều ngàn năm rồi, và đã được thành chánh quả. Chỉ con là kỳ nầy mới thành, mà lại vào thời kỳ tân tạo nhân loại Thiên Địa. Nên Thầy rút con về đây để con an dưỡng linh khí của Thầy, chứng Linh Tâm, mở Lục Huệ cho con thành Diệu Quang Di Lạc Chơn Thể, để con mang Thánh Tâm của Thái Bình đi phổ bá Chơn Kinh đời mới của Thầy.
Phật Đạo con về đây
Hiệp khí linh của Thầy
Đốt trong lò Vô Cực
Con mượn gió đạp mây.
Thầy chứng Đạo hôm nay
Cõi vô hình vô tướng
Ngoài vòng phi phi tưởng
Con chưởng dưỡng Đạo Thầy.
Tâm lực ở nơi đây
Hiệp vào tâm con Thầy
Đường Thiên Không rộng mở
Cho Anh Thánh vượt mây.
Chơn Đạo Thầy vô hình
Mà đầy đủ phép linh
Làm chủ muôn vạn vật
Mà lặng lẽ vô thinh.
Chơn Phật con vô tướng
Hậu Thiên mang Thánh Tâm
Thái Bình con thành Đạo
Đại diện Thầy ngàn năm.
Thái Bình tiếp lời Thầy ngâm bài thơ:
Chơn Đạo Vô Hình
Ngộ Đạo Chơn Không giữa Hư Linh
Âm Ba vang vọng lại vô hình
Tiếng Trời dạy trẻ nhìn không tướng
Hiệp Đạo Đất Trời giữa thinh thinh.
Đạo lực Thầy ban sáng hiệp nguồn
Dạy lời minh chánh lý Phật Ngôn
Con về hiệp được Chơn Bản Thể
Nguồn cội Hư Không Đức Thế Tôn.
Con lại nhìn con Ngọc Vô Hình
Một vòng tinh khiết sáng lung linh
Ba Nhà Sáu Cõi đều thông suốt
Trí tuệ khai thông Đạo Thái Bình.
Thầy lại dạy con Thầy lại cười
Tâm con Hoa Phật rưới thêm tươi
Huyền huyền diệu diệu vô hình tướng
Mà biết phát ngôn điển hoá cười.
Hiệp một Đạo Trời Chơn Giác Linh
Thiên Không Phật Pháp ngộ trong mình
Con Thầy hiệp thể ngôi Vô Cực
Thiên Lý Thần Quang con bừng thức.
Di Lạc Thánh Tâm trở vào đời
Cầm cơ phổ bá đại diện Trời
Chơn Quang ban phát cho môn đệ
Thức giác nguồn mê sớm trở về.
Chơn lý Thầy ban cảm ứng linh
Viết thành văn Phật Đạo Thái Bình
Vô vi, vô lậu hiệp vô tướng
Cứu độ muôn loài hướng độ sinh.
Luồng Chơn Quang của Thầy từ từ đưa tôi về lại Không Trung và hiệp lại bản thể.
***
(Hết trang 51.)
(Tiếp theo trang 41.)
"Lúc này vị đại sư Huệ Khả biết là mình còn có chỗ chưa liễu ngộ được Tâm Hoa của Đạo Gia, nên chia tay các hàng môn đệ, rồi đi vào sau núi chùa Thiếu Lâm để tìm Đạt Ma Sơ Tổ. Lúc này ông rất thành lòng cầu Đạo. Khi gặp Tổ Sư ông xin quy y theo Tổ học Đạo. Sơ Tổ đọc bốn câu kệ cho ông nghiệm:
Thiên Địa quy thanh
Hai tám kết thành
Âm Dương quy nhất
Thì đắc trường sanh."
"Sau khi nghe xong, vị hoà thượng Huệ Khả ra ngoài mấy ngày và đã nghiệm ra:
Tay Âm tay Dương
Chặt xuống một đường
Thì còn có một
Thì đắc thuần Dương."
"Nghiệm xong ông lấy cây búa chẻ cũi mà chặt đứt đi cánh tay phải của mình, rồi vào trình đốn pháp cho Tổ Sư."
"Tổ Sư thấy ông có lòng thành cầu Đạo, nên nhận ông làm đệ tử và dạy cho ông Huyền Công Mật Pháp. Sau đó ông được Tổ truyền dạy đắc pháp, làm Tổ đời thứ hai của đốn pháp - Giáo Pháp của Như Lai - và được tiếp tục truyền Tổ cho tới đời Huệ Năng Lục Tổ là dứt."
"Từ đó bí pháp của Phật không được phép dạy ra ngoài. Vì vậy phần đông các đệ tử từ đó đến nay chỉ tập luyện được phương pháp sơ thiền căn bản, chứ huyền bí pháp môn không được lộ bày."
"Đời nay Như Lai cho phép dạy trở lại bằng ba thời kỳ của pháp môn, nhưng chỉ truyền hai phần đầu được phổ trong cơ huyền ẩn, và không được in ra sách. Còn phần thứ ba Đại Pháp là huyền bí hoàn toàn, cho các đại căn tịnh tu dưỡng Đạo."
Nghe qua vị đại sư Huệ Khả là một người từng giảng Kinh Phật mà còn không hiểu ra bốn câu:
Thiên Địa quy thanh
Hai tám kết thành
Âm Dương quy nhất
Thì đắc trường sanh.
Thiên Địa quy thanh, là tu cho Âm Dương thuần nhất, không còn lộn lạo. Trung Dương hữu Âm, trung Âm hữu Dương, trong ngoài một khí.
Hai tám hội thành, là ngày trăng thượng huyền và trăng hạ huyền là tìm ra cái ngày Âm Dương giao cảm mà mở cửa Vũ Trụ, tiếp kế Hư Vô mà thành chánh quả.
Cái nầy thuộc về cơ Huyền Bí, Mật Pháp, Ẩn ngôn. Sau này Thái Bình sẽ đem giảng cho các hàng môn đệ được phương pháp tập luyện tới đó rồi sẽ rõ. Khi tập tới đó thì sẽ thấy vòng Dương khí thuần Dương, thành một vòng tròn ba mươi sáu sao Thiên Cương của Phật hiệp thể vào chín khí Nguyên Linh kết tụ lại thành thân mà Thái Bình được Thầy điểm Đạo. Đến đó phải biết ngày giờ tu luyện vào thất chưởng dưỡng hào quang một trăm ngày, mới hiệp cùng Trời Đất mà sanh Kim Thân Phật Tử Pháp Thân vào các cõi Hư Vô tu luyện.
Thái Bình được Thầy hiển Đạo nên vào thất một trăm ngày và được chính Thầy giáo dạy, và được Thầy truyền ba luồng Chơn Quang của Phật Tổ đó là luồng Đại Trí, Đại Dũng và Chơn Pháp Đại Bi vào Chơn Tâm của Thái Bình. Thái Bình đã năng hành và tịnh dưỡng cho Thần Quang Diệu Tướng thông suốt Ba Nhà, Sáu Cõi của Vũ Trụ và theo lệnh Thầy đi khai giáo pháp Đạo Trời vào trong nhân gian cho hàng môn đệ của Cộng Đồng Tam Giáo, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần đã hạ sanh làm người bắt được Pháp Môn mà về tịnh luyện cho kịp thời kỳ cơ Thiên Địa Đại Tạo của Trời Phật lập pháp.
Còn Như Ý Pháp Môn là cho tất cả Ngũ Chi Tam Giáo tu dưỡng khoa học huyền bí để được đắc pháp mà về Nước Trời vào Hội Long Hoa cho kịp cơ tiến hoá của Vũ Trụ vận hành, Thiên Địa tân tạo, lập lại đời Tân Dân Minh Đức.
Pháp Trời được khai hoá,
Thiên Địa được tân tạo.
Thầy nói: "Con đã nhìn rõ bộ máy Thiên của Thầy luân chuyển trong khắp Tam Thiên Thế Giới, có sự ấn định ngày giờ không sai lệch. Còn Thầy cho Thái Bình viết lộ một phần về khoa học huyền bí của Thầy đang vận hành Vũ Trụ Càn Khôn, là ý của Thầy muốn đánh lên ba hồi chuông cảnh tỉnh nhân sanh, quy thanh học Đạo cho kịp kỳ Trời Đất tân tạo. Phật Tiên ra sức hộ pháp phò cơ, các Nguyên Linh lo tu tham thiền luyện Đạo là mỗi tự thân bắt được ba luồng điển Đại Bi, Đại Trí, Đại Dũng của Thầy đang chiếu xuống thế gian cho Thái Bình làm việc, cho các Chơn Linh theo đó mở đường Thiên Lý mà về hiệp Đạo vào lòng Trời bao la vô tận. Từ trước, Thầy chỉ chiếu có một luồng điển Đại Bi cho các vị chơn tu tiếp được luồng linh khí để mở lòng từ ái, yêu thương, xây dựng tình người, tình đồng loại, trong cơ Đại Tạo vận hành để dìu tiến Chơn Linh tu hành đạt pháp."
Tình Trời thương bao la
Không gian trùm khắp cả
Lòng người vui vang xa
Tiên Thiên cùng phép lạ.
Trời cao trong tâm ta
Linh quang Ngài sáng lạ
Thiên Không chiếu tung ra
Tâm con hiệp sáng loà.
Thiên Lý trong lòng Cha
Ban cho con cảnh lạ
Đạo đức của Thái Bình
Trong tình Cha vô giá.
***
(Hết trang 45.)
(Tiếp theo trang 34.)
"Con có còn nhớ, các đệ tử của Đạt Ma Sư Tổ truyền năm đời bên Đông Phương cho Thiếu Lâm môn đệ học Đạo. Cho tới đời Tổ Sư Hoàng Nhẫn mà các môn đệ vẫn còn mê chấp vào văn tự, ôm kinh đọc tụng hằng ngày, thuộc lòng hết các kinh luận. Và có cả ba ngàn đệ tử và cả nước Trung Hoa thờ Phật nghiêm cung, kỉnh tin ra lẽ, vậy mà không có người nào tìm ra cái chìa khoá ở trong Kinh Đại Thừa đốn pháp. Lúc bấy giờ chỉ có Huệ Năng, từ nhỏ tới lớn chưa từng vào trường học văn viết chữ, chưa từng vào chùa học tụng kinh văn, nhưng chỉ mới nghe hai câu: 'Ưng Vô Sở Trụ, Nhi Sanh Kỳ Tâm' mà ngộ Đạo, về nhà xin mẹ để được đi tu. Lúc Hoàng Nhẫn Pháp Sư ra bài để tầm hàng môn đệ có linh tánh cao mà truyền Tổ. Học hết kinh lý như Thần Tú chỉ nói lên được bốn câu, đó là mới bước vào thềm của Đạo:
Tâm như Bồ Đề Thụ
Tánh như minh kính đài
Giờ giờ thường phát thức
Ngày ngày thường lau chùi."
"Lúc này Huệ Năng cũng viết bốn câu vào tường:
Bồ Đề bổn vô thụ
Minh kính diệt phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhiễm trần ai."
"Một nói về người hành tiểu pháp căn bản, còn ôm chấp cái văn tự, nên viết ra thành một dãy văn tự, chưa ngộ chỗ siêu thoát, trình độ tâm linh chỉ là hạng sơ căn tiểu học của Đạo Gia. Còn một bên chưa bao giờ học kinh văn mà lại nói lên chỗ Đạo Tâm vô vi siêu thoát. Ấy chẳng qua là cái vốn Thánh Tâm còn chưa bị che tối nên viết ra Mật Ngữ Thiên Ngôn."
"Đời nay ngòi bút Thái Bình cũng không học rộng hiểu sâu cho lắm, nhưng khi ngộ Đạo là nhờ ở hai câu: 'Chơn Đạo Vô Hình. Chơn Phật Vô Tướng'. Mà cầm được cái chìa khoá của cõi vô hình mà về hiệp thể cùng Đại Đạo. Sau đó là được Thầy đích thân truyền thụ chơn khí hào quang của Hư Vô Chi Khí, mở Huệ đắc pháp về hiệp với lòng Trời."
Thầy ngự giữa Hư Không
Âm ba vang lồng lộng
Thiên Âm vô hình bóng
Mà làm chủ Hư Không.
Thầy trong tâm chơn tu
Linh giác là thuyền từ
Luôn hồi quang phản chiếu
Học thành bậc chơn sư.
Đạo Thầy như không gian
Gom khí linh Niết Bàn
Học Chơn Kinh Đại Định
Khí linh thành hào quang.
Học Đạo Thầy vô tư
Tình yêu của Đạo Trời
Trong không gian lớn rộng
Nuôi dưỡng Đạo và đời.
Thầy Siêu Nhiên thanh cao
Huyền Tâm mãi bước vào
Trong tình yêu Vô Thượng
Kim cương vốn không màu.
Nhìn Diệu Tướng chiếu ra
Phật Tiên Thần hát ca
Rồi lễ Thầy cao cả
Lòng Trời, ôi bao la.
Thầy đưa tay mĩm cười
Con thanh tịnh vào đời
Thành Diệu Quang Di Lạc
Thái Bình phổ Kinh Trời.
Cảm ơn Thầy giảng kinh
Lời minh giải siêu hình
Chúng con đồng nhuần thấm
Hồng phúc Thầy đang trồng.
Thầy dạy con vô tư
Trong thế giới con người
Chúng sanh nhiều trược khí
Đốn pháp cho tỉnh đời.
Thanh tịnh tỉnh nhân tâm
Khoa học đang truy tầm
Huyền vi Thầy mở cửa
Con đắc ngộ huyền thâm.
"Con có biết lúc Tổ Sư Đạt Ma được lệnh của Thầy truyền phải về Đông Độ giảng kinh, dạy Đạo. Khi Đạt Ma Sơ Tổ qua tới Trung Hoa giảng pháp, Ngài có ghé qua chùa Thiếu Lâm. Ở đó, Đạt Ma được mời ở lại để lên đàng giảng pháp. Khi lên pháp đài, Ngài hỏi các vị ở đây tu pháp gì, thì vị chủ trì và các đại đệ tử ôm ra cả kho kinh sắp ở trên bàn. Sơ Tổ mở ra coi sơ qua rồi xếp lại, mà xem đến ba ngày ba đêm mới xong đống kinh đó. Coi xong rồi, Ngài im lìm bỏ ra đi, không nói một lời. Các vị đệ tử của Thiếu Lâm không hiểu vì lý do gì mà Sơ Tổ không giảng kinh."
"Sau đó Sơ Tổ ra ở phía sau chùa Thiếu Lâm, vào trong hang động ngồi tịnh. Các vị đại đệ tử ra chế giễu năm bảy ngày mà Ngài vẫn yên lặng. Đến khi mở mắt ra, Ngài nhìn vị chủ trì. Vị chủ trì hỏi là không hiểu kinh pháp ở Trung Hoa Phật Pháp ra sao nhờ Ngài góp ý."
"Đạt Ma Tổ Sư nói: 'Đạo Học cần có Pháp Môn để rèn luyện đức tính từ thấp lên cao, từ sơ thừa lên trung thừa, rồi đến đại thừa vô vi huyền bí. Nhưng sau khi tôi xem qua hết kinh sách ở đây, văn vẻ thì hay mà không dạy phần tu dưỡng cho nó. Đạo đức ngôn từ thì văn vẻ thanh cao, mà không chỉ cách tu luyện Huyền Công Mật Pháp. Còn các kinh khác hầu hết là kinh siêu hồn, thoát nạn, trừ tai, chớ không có chỉ đường giải thoát. Vì các vị chưa biết và chưa học giải thoát, và kinh ở đây không có nói đến, nên văn tự chưa thấy tới lúc để giảng về đốn pháp.' "
"Các vị đại sư cười và nói: 'Tại ông không biết giảng kinh nên nói tránh cho vui đó vậy.'
"Đạt Ma Sơ Tổ vẽ ra một con ngựa có hai cánh và một con sư tử có mọc hai cánh, rồi mời các vị đại sư ngồi lên cho nó chở về Trời."
"Các vị đại sư bu lại cười nói: 'Con ngựa cho dù có cánh cũng bằng giấy thì làm sao chở chúng tôi về Trời được?' "
"Đạt Ma Sơ Tổ hỏi lại: 'Không lẽ đống kinh bằng cũi kia các ông tụng hoài mà thành chánh quả sao?'
"Sau đó các vị đại sư không dám trêu chọc nữa, và từ đó Ngài vân du trong nước Trung Hoa để tầm nhân hiền, dạy Đạo truyền đời."
"Một hôm Ngài gặp một đám đông, mấy chục ngàn người, đang ngồi nghe một vị hòa thượng thuyết pháp. Lúc đó Đạt Ma Sơ Tổ cũng đến nghe. Đến trưa, Ngài vẽ ra một cái bánh trên giấy đưa cho vị hoà thượng xem."
"Vị hòa thượng hỏi: 'Ông hoạ ra cái bánh trên giấy để làm gì?'
"Đạt Ma Sơ Tổ bảo: 'Ông hãy cắt ra chia cho mỗi người một miếng để ăn trưa cho đỡ đói.'
"Vị hòa thượng cười to và bảo: 'Tôi có bốn mươi ngàn đệ tử, cho dù cái bánh thiệt chia còn chưa đủ, huống chi cái bánh vẽ nầy.'
"Đạt Ma Sơ Tổ trả lời: 'Ông nói bánh vẽ không no lòng người được, vậy chứ ông giảng kinh, vẽ văn, viết chữ, mà không có pháp môn huyền bí cao siêu thì làm sao mà thành chánh quả được?'
"Nói xong Sơ Tổ bỏ đi. Vị hoà thượng xin hỏi pháp danh. Ngài nói pháp danh là Đạt Ma. Vị hoà thượng lại hỏi chỗ trú ngụ. Ngài đáp, đang trú ngụ ở phía sau chùa Thiếu Lâm. Rồi Đạt Ma đi về lại hang động ngồi tu thiền luyện Đạo."
(Hết trang 40.)
(Tiếp trang 26.)
CHƯƠNG HAI
Qua thời gian tu tập, tôi nhớ lại lúc ban đầu. Một hôm đang ngồi thiền định, bổng nhiên thấy Đức Phật Tổ Như Lai ngồi giữa Hư Không. Ngài đưa bàn tay trái xuyên qua mây rồi đưa ngay trước trán tôi và xoè bàn tay ra. Ngài gọi vào tâm thức tôi: "Di Lạc Chơn Thể. Di Lạc Chơn Thể. Di Lạc Chơn Thể. Hãy lên bàn tay của Thầy, Thầy sẽ đưa con về Tây Phương luyện Đạo."
Lúc đó tự thân thấy quá thanh nhẹ, nên quên hết tất cả những gì hiện hữu ở chung quanh. Tôi cứ lo chăm chú nhìn Ngài, bởi vì sự xuất hiện của Ngài quá đột ngột đối với tôi. Và luôn cả hình tướng to, thật khổng lồ kia tôi chưa được nhìn thấy qua bao giờ, cùng với ánh hào quang sáng tỏ thật rộng, sáng loà cả mắt tôi. Ngài nhìn tôi cười và từng bước tôi bước lên đứng vào lòng bàn tay của Phật Tổ. Ngài co ngón út lại cho tôi ôm rồi từ từ rút tay về lại không trung. Thầy bỏ tôi vào túi áo bên trái của Ngài rồi bay về Hư Không Đại Định.
Thầy bay mà tôi nghe chừng như không gian đang réo gọi, như xé cả bầu khí quyển không trung. Vượt qua các tầng Trời Vô Cực, rồi hiệp vào Đại Thể của Linh Khí Hư Vô. Thầy kêu tôi định tâm ngồi nhìn Vũ Trụ Quang, rồi Thầy đưa tay lên chỉ một biến, thì lập tức hiện ra một bầu linh khí lơ lững trước mặt. Thầy bảo tôi bước vào trong bầu linh khí đó. Tôi vâng lời Thầy và bước vào trong bầu Nguyên Linh. Rồi hồn tôi từ từ tan ra thành khí toả khắp trong bầu.
Lúc đó tôi kêu la thật to cầu cứu: "Thầy ơi cứu con! Thầy ơi cứu con! Thầy ơi cứu con! Con đã tan ra thành khí. Con sắp chết hết rồi!."
Trong khi ấy Thầy vẫn nhìn tôi mĩm cười và Thầy ngồi đó ngâm thơ coi tôi được linh khí đốt cháy.
Chơn Kinh Thầy phổ
Biển Đạo vô biên
Thầy đốt Thánh Hiền
Trở thành Ngọc Thể.
Kim Cương Thượng Đế
Diệu Tướng hoá thân
Di Lạc hào quang
Ngọc Thân chánh định.
Kết thành minh cảnh
Linh khí Chơn Thân
Bạch Ngọc Đuốc Thần
Như Lai Phật Pháp.
Hư Vô truyền đạt
Huyền khí của Trời
Lò Đạo đốt người
Chơn kinh uyên bác.
Thông đạt máy Thiên
Mở cửa Linh Huyền
Chơn truyền chánh giáo
Phò Đạo của Thầy.
Ra mở Đài Mây
Thượng tầng linh khí
Phổ Pháp Như Ý
Giáo dạy môn đồ.
Điểm Đạo Hư Vô
Vào tầng thứ bảy
Lò Trời đốt lại
Thiên Lý thông minh.
Nắm luật Thiên Đình
Phổ Kinh Bát Nhã
Di Lạc Chơn Thể
Chuyển thế vào đời.
Cầm bộ sổ Trời
Thái Bình kinh luận
Cảm ứng linh tâm
Phổ độ quần sanh.
Viết Kinh Chơn Giải
Nguyên thể hiện thân
Kết khí Huyền Quang
Chơn Thân hiệp Đạo.
Sau một lúc tự thân tịnh ý, nghe Thầy giảng từng câu, từng câu một, và làm như ru tôi từ từ yên tịnh cho đến khi dứt câu, thì Thầy chỉ vào bầu khí Hư Linh tan rã. Lúc đó tôi nhìn lại tôi thấy mình mặc toàn đồ trắng và bằng kim cương mà có chín đứa nhỏ chạy quanh tôi rất là vui.
Thầy nhìn tôi và đặt cho tôi pháp danh là Thái Bình Bạch Ngọc Diệu Quang Di Lạc Chơn Thể. Từ đó tôi có tên. Tôi quỳ xuống cảm ơn Thầy và nhờ Thầy giải nghĩa cho tôi tại sao có 9 đứa nhỏ theo tôi.
Thầy giảng: "Chín khí của Trời Đất có từ ngày khai Thiên lập Địa. Mỗi Nguyên Linh giáng trần đều phải mượn bảy khí để kết thể đầu thai, nên gọi là Thất Chơn Chuyển Thế. Rồi khi vào trong xác thân lại mượn khí Dương của cha, khí Âm của mẹ mà kết thành thân khôn lớn. Khi người đắc pháp ở cảnh giới nào thì được mở ra ở tầng khí đó, rồi nó cùng mình tu chung để đắc pháp, đắc thành Tiên khí. Chúng nó làm Lục Căn gia tướng cho mình sai khiến công việc của cõi vô hình và giữ an ninh hộ pháp là vậy."
"Còn tên con là Bạch Ngọc Diệu Quang Di Lạc. Là từ lúc tạo Thiên lập Địa xong rồi, thì Ngọc Đế cùng Phật Mẫu chuyển các Nguyên Linh xuống đầu thai làm nhân loại. Thì Thầy chiết viên ngọc thứ bảy mươi hai của Thầy là Bạch Ngọc Diệu Quang đưa qua cho Phật Mẫu và Ngọc Đế để lấy khí Âm Dương của Trời Đất mà kết thành thân Nguyên Linh cho con, và đặt tên cho con là Tiên Đồng. Sau đó đưa qua cho Đức Thái Thượng Lão Quân làm Thầy dạy cho con học Tiên Đạo được một ngàn năm, rồi chuyển thế cho con xuống thế gian tu luyện đắc pháp mà về lại đây."
"Kế tiếp, Thầy và Ngọc Đế sai con hạ sanh tu luyện tiếp tục cho tới lần thứ năm điểm Đạo, rồi chuyển kiếp cho con xuống trần gian tu luyện tiếp tục. Từ đó con tu Thánh Đạo, qua Tiên Đạo rồi về Phật Đạo. Lúc con tu luyện bên Phật Đạo, Thầy điểm Đạo cho con lần thứ sáu và đặc tên cho con là Diệu Quang Di Lạc Bồ Tát. Từ đó con mới có tên là Di Lạc, và tu thành chánh quả Kim Tiên Bồ Tát."
"Thầy nhìn thấy trong các hàng Thiên Đạo tu chứng đắc Đạo, phần đông chỉ được học một tôn giáo mà về đây thì nhiều. Nếu Thầy sai xuống lại thì sợ khi thuyết giảng theo cái hiểu biết một chiều - chấp thiện - và ôm cái giáo lý truyền đời của mình mà không mở rộng được nguồn Kinh Pháp cho tất cả Tam Giáo Ngũ Chi đồng học được cái toàn năng linh giác của Đại Đạo. Vì vậy Thầy mới chọn con vào kỳ cuối là thời kỳ nầy Tam Giáo quy gia, Ngũ Chi hiệp nhứt. Đây là cuộc thi tổng kết cho khắp cùng Đạo Giáo trong Đại Thiên Địa, lập lại cuộc Tam Ngươn, khai sáng nền văn học mới mẻ và một nguồn tinh thần văn minh Phật Pháp. Bởi vì con đã đầu thai từng làm người quân tử, tu Thần Đạo, tu Thánh Đạo, tu Tiên Đạo, và tu Phật Đạo mà đắc pháp. Và con đã được nhiều kiếp tu luyện từ ngàn năm bên Tam Giới và cũng đã về học Đạo với Thầy ba ngàn bảy trăm năm học Phật Pháp. Tất cả nguồn văn học của Đạo Gia con đã gom gọn vào cái túi Càn Khôn của con mà mang xuống trần, không khác gì con mang cái Hàn Lâm Viện Học của Đại Thiên Thế Giới trên mình con đó vậy. Cho nên Chư Tiên, Chư Phật gọi con: 'Đầu chứa Phật Quang, Bụng mang Bảo Pháp'. Nhờ vậy mà con khỏi phải về đây lục kiếm kinh thơ ở Hàn Lâm Học Sĩ. Con mở nó trong con ra, là trong con có cả lòng Trời bao la Vô Thượng. Lấy đó mà viết ra thiên kinh vạn quyển truyền đời, để cho hàng môn đệ coi đó mà học theo Việt ngữ Hán văn kết hợp mà thành Tiên đắc Đạo. Còn tay cầm Ngọc Như Ý của Thầy là ý nói từ đây con thay Thầy truyền dạy Như Ý Pháp Môn cho các Linh Căn khai tâm mở Huệ mau lẹ mà đi về dự cho kịp cái Đại Hội Long Hoa do Thầy chủ khảo chấm thi. Hoặc là các đại căn của Tam Giáo Ngũ Chi, hay các vị Giáo Chủ đã giáng trần làm những vị chơn tu trong Tam Giáo và thành những vị tu sĩ hiện thời, họ cũng cần con chỉ cái Mật Pháp của Thầy cho các vị ấy tu tập. Con nên chia ra ba thời kỳ của Như Ý Pháp Môn."
"Thời kỳ thứ nhất là tập luyện cái Sơ Pháp gọi là Tiểu Pháp Như Ý cho các Linh Căn tập luyện, trị bịnh và khai mở các kinh mạch, lưu thanh khử trược cho sạch cơ tạng, để mới có đủ công đức mà học tập cái Trung Pháp. Cái Trung Pháp tham thiền nhập định là để khai mở Thần Quang, khai mở Thánh Nhãn, khai hoá linh tâm, xuất Thần đi học Đạo trong các cõi Trời. Sau đó mới chọn các môn đồ xuất sắc, thanh liêm, hiền triết mà dạy cái Đại Pháp Huyền Công tập luyện để vào các cõi Đại Thiên Thế Giới để kết Kim Thân, an lư lập đảnh để hiệp một cùng Hư Vô Chi Khí mà thành thân đạt Đạo."
"Kỳ nầy hễ con chọn được môn đệ thì chỉ dạy cơ huyền bí cho nó học tập tu luyện. Còn phần lên lớp, Thầy và ba ngàn Chư Tiên luôn theo dõi trình độ của từng người, rồi cho con biết để con có giáo pháp tiếp tục. Còn Như Ý Pháp Môn Huyền Bí Phật Pháp là Đại Pháp của Trời. Xưa nay trong Trời Đất chỉ dạy một pháp nầy. Tiên tu đắc Tiên, Phật tu đắc Phật, Thánh tu đắc Thánh, Thần tu đắc Thần, Nhân tu đắc Hiền. Bởi vì cơ nầy gấp quá rồi, mà trình độ các Chơn Linh thì quá thấp, lại còn ôm các pháp hữu vi luyện tập hoài thì không thể kịp cơ để thành chánh quả được. Vì các pháp đó chỉ dạy các phương pháp sơ thiền, các pháp môn căn bản, thì làm sao đắc pháp được. Vì còn học các pháp tiểu thừa thì làm sao vào trung học mà đắc ngộ được đại học. Còn cái Pháp Tiên Thiên Vô Vi là trung học mà Thầy còn chưa cho phép phổ truyền, huống chi là Đại Pháp của Niết Bàn Chơn Lý Huyền Vi. Xưa nay người học Đạo có kinh thì ôm kinh mà không chịu nghiên cứu cái Huyền Khiếu Mật Ngôn trong kinh để mà tầm cho ra chỗ Chơn Giải."
(Hết trang 33.)
(Tiếp theo trang 18)
Đạo Học là muôn hình vạn trạng, nhưng mục đích là giải tâm mở khiếu. Nắm được chìa khoá, mở được công thức của Trời Đất để biết cách hoá thân, để biết cách luyện Đạo, mà đi vào từng cảnh giới của Hư Linh Chi Khí mà hiệp thân. Rồi biết gom Thần Quang trí tuệ, khai mở linh tâm, cầu Kinh Chơn Giải. Có Chơn Giải bí quyết của Mật Ngữ thì mới nghe được tiếng của Trời nói xuống ở trong lòng mình mà cảm ứng cho trọn vẹn cái ý của Thầy giáo dạy.
Thiên Âm chuyển vào lòng,
Thì đi vào Hư Không.
Tiếng Trời là Âm Ba Đại Hồn đi khắp không gian muôn ngàn pháp giới. Không hình thể mà gởi trọn vào linh tâm của người đạt Đạo. Nghe Thầy ngồi trên Hư Vô dạy mình mà tưởng chừng Thầy đang ngồi với mình đàm luận. Có lúc sung sướng quá vì hiểu sự minh triết vô cùng, rồi ôm chầm Thầy vào lòng. Nhưng khi tỉnh lại thì bật cười to lên, vì đã thông được trí tuệ. Lời Thầy ôn hoà dũng mãnh vang ra, vang ra, mà người ngồi bên không nghe thấy. Đến đây mới biết ai mở nấy nghe, ai tu nấy đắc.
Yêu Thầy trong biển yêu,
Càng yêu càng xoay chiều.
Mỗi ngày gia tăng sự quý mến kính yêu Thầy. Mỗi ngày mỗi gia tăng trong biển yêu rộng lớn, như bao trùm hết cả Vũ Trụ Càn Khôn.
Yêu Thầy yêu Chơn Sư
Gom vào biển Đại Từ
Tình yêu trong Thượng Đế
Mãi hoà ái vui tươi.
Yêu Thầy yêu Chơn Như
Ánh sáng đầy tâm người
Tình yêu nguồn minh triết
Dạy con thành Chơn Sư.
Yêu Thầy đi muôn nơi
Đem hạnh phúc cứu đời
Đem từ quang Thầy độ
Ban tặng cho con Trời.
Yêu Thầy con giảng kinh
Đem đạo đức Thái Bình
Và đem nguồn Tâm Pháp
Cho nhân loại hồi sinh.
Thầy cười luôn mến yêu
Con viết kinh cho nhiều
Để thức hồn linh chúng
Về hiệp Đạo nguồn yêu.
Thầy cười uống trà Tiên
Độ các con tu thiền
Tâm Hoa con khai mở
Lên chín phẩm đài sen.
Thầy cười thấp ngọn đèn
Hồn linh con được sáng
Thái Bình con làm bạn
Kinh Thầy chuyển cứu đời.
Thầy cười bồng lấy tôi
Và hồn tôi giòn giã
Thầy cho con phép lạ
Đi độ thế cứu đời.
***
Lễ Trời
Bốn phương hoà tấu ca
Như khúc nhạc Long Hoa
Như mừng người Anh Thánh
Sống trong lòng Chúa Cha.
Xuân năm nay đón chào
Chơn lý ấy thanh cao
Hoa tâm dâng Đại Lễ
Lệ ngọc mừng làm sao.
Biết bao năm công dầy
Mới hội được ngày nay
Cửa Thiên Đàng yến hội
Ngồi bên Mẹ bên Thầy.
Tam Giáo hoà khúc ca
Mời con dự Thiên Toà
Cầm Thiên Ấn Ngọc Chỉ
Ngồi trên Đài Long Hoa.
Con như được hồi sinh
Bốn phương điển hiệp mình
Ba ngàn Chư Tiên độ
Sáng Đất Trời lung linh.
Con hát bài Thánh Ca
Dâng Đại Lễ Thiên Toà
Bốn phương đồng tay vỗ
Chào Anh Thánh Long Hoa.
***
Mật Ngữ không bày trên sách,
Linh Pháp Thiên Lý Ẩn Ngôn.
Tất cả kinh lý có cái chìa khoá, chớ không phải đọc để vui tai, thoả trí. Người học Đạo là ở chỗ tồn tâm, luyện pháp tầm ra chỗ siêu nhiên mà kết hợp vào Đại Thể của Vũ Trụ vận hành, và tìm ra những chơn lý Ẩn Ngôn mà truy cho ra cái chìa khoá của các cõi mà tập luyện để hiệp thân cùng làm một với Đạo.
Âm Dương giao cảm quy hiệp nhất,
Đoạt máy huyền cơ của Hư Không.
Thiên Lý là một con đường thanh quang điển lành. Nó không có nhất định tu lâu hay mới tu mà tỏ ngộ. Nhưng nó có những văn ngôn Mật Ngữ, cộng với pháp lý truyền tâm của Trời thì mở được Vũ Trụ, mở được Khiếu Linh tâm pháp, mà giải thông Đạo Học Điển Văn, thoát vòng Lục Đạo Luân Hồi nghiệp chướng của kiếp nhân sinh.
Đường Đạo là đường nối Khiếu Linh
Kết thành hai tám sáng thanh thanh
Hào quang hiệp nhất cùng Chơn Thể
Viết lại thành văn của Thái Bình.
Thiên Lý trong tôi sáng bừng bừng
Chơn Quang hoà điệu với Hư Không
Bốn phương nhạc trỗi thành ban nhạc
Trỗi khắp ba nguồn Anh Thánh hưng.
Người học Đạo đến chỗ ẩn ngôn phải thường thiền giác để truy cho ra cái lý của Vũ Trụ vận hành. Vì tất cả các đường di chuyển của Vũ Trụ nó có ngày giờ nhất định để mở cửa.
Huyền Quang là chìa khoá,
Mật Pháp là đường vào.
Khí linh mà người thiền định càng tiếp được thì nó càng rút lên không trung. Lúc đó linh thể, linh tâm nhìn thấy bốn phương tám hướng rộng lớn vô cùng. Khi nhìn lại thấy Trái Đất lơ lững giữa bầu trời thanh tịnh. Tất cả nhân loại, vạn vật như Thượng Đế gom họ lại trong một cái túi không khí để mà sống. Còn Vũ Trụ bao la, các hành tinh di chuyển theo đường quỹ đạo của dãy Ngân Hà, nhịp nhàng qua lại. Lúc nầy mới thấy thật rõ ràng không gian là một biển linh khí, hàm chứa hết vạn vật trong sự huyền bí vô cùng.
Trước đây thường nghe các vị bác học gia bình luận nhiều năm là không tin có Thượng Đế, không tin có khoa học huyền bí siêu nhiên. Vì vậy họ đả phá tôn giáo mê tín dị đoan. Nhưng khi lên đài thiên văn siêu tầm và thí nghiệm trong không gian, rồi đi ra ngoài trái đất để nghiên cứu. Một hai năm sau trở về lại, thì đi nhà thờ, và học kinh Thượng Đế. Và có nhiều vị về hưu lên tới Hy Mã Lạp Sơn để mà tầm sư học Đạo, và ở trên núi để trở thành những vị thiền sư tu thành chánh quả.
Từ khi các nhà khoa học gia công nhận có Thượng Đế, thì trong các giới trí thức mới thức tâm. So lại sự học tập và nghiên cứu của mình còn kém hơn các nhà bác học kia quá nhiều. Từ đó giới văn minh mới chấp nhận có Đấng Thượng Đế. Nếu lúc nầy một vị khoa học gia mà thả phi hành đoàn bên tôi thì cũng phải cuối đầu bái phục một nhà Đại Bác Học Gia của Vũ Trụ. Ngài là ai? Ngài là Thầy đang hiện diện trong các Chơn Linh của nhơn loại.
Chưa học tới nơi thì còn có chỗ nghị luận. Đem cao kiến ra mà bàn cãi sở học của mình. Nếu khi đã học tới chỗ cùng tột của Vũ Trụ vận hành rồi, thì khi linh tâm khai mở ra, đứng giữa lòng Trời bao la vô tận, vi diệu vô cùng. Lúc đó sẽ cảm thấy đời người là giả tạm, sống trong túi dưỡng khí của bầu Vũ Trụ Hư Linh chớ có hay ho gì mà bàn tán học cao, tập thấp.
Sức hút của bầu linh khí chứa không biết bao nhiêu hành tinh, tuần tự lưu hành. Mỗi mỗi hành tinh, mặt trời, mặt trăng đều đi theo đúng theo từng chu kỳ của nó. Những ngày Vũ Trụ mở cửa, tôi ra giữa không gian nhìn bốn bề tươi đẹp. Khi trở về tự thân muốn vào núi, xa cái cảnh đô thị để yên thân nhàn Đạo, và cũng không muốn viết ra lời nào nữa khi đã thấu hiểu: Chơn Đạo Vô Hình, Chơn Phật Vô Tướng.
Nhưng tôi được Thầy khuyên và an ủi rằng hãy cố gắng lên và hãy viết ra cái lý của Vũ Trụ khoa học huyền bí để cho mỗi tâm linh biết đường mà tìm về nguồn gốc của Linh Căn, nhà lớn của Vũ Trụ.
Tu cho đến đạt Đạo, ra vào Vũ Trụ là nhờ tìm ra những công thức bí mật của khoa học huyền bí. Nó là những bài toán học không gian vận số rõ ràng, chớ không thể dùng sự mê tín mà đạt Đạo. Một người thành Đạo là một nhà khoa học duy tâm huyền bí, có thể tháo gở những điều mà khoa học hữu vi không tháo gở được.
Khoa học trong huyền bí
Huyền bí trong linh tâm
Tầm chìa khoá mở khiếu
Thì thông suốt Dương Âm.
Dương Âm biết kết lại
Là lập đảnh an lư
Thánh Thai tự an ngự
Sanh ra được Chơn Như.
***
(Hết trang 25.)
(Tiếp theo trang 12.)
Truyền Đạo hiệp lòng Trời,
Dưỡng Đạo để truyền người.
"Các con hãy nghiệm cho kỹ cái châu thân và cái đời sống ô tạp hiện hữu, các con sẽ tìm ra hai nguyên lý: Một là cái thân phàm không thể bất diệt. Hai là loạn tưởng của đời là không vĩnh viễn của mình."
"Thân các con không được sống lâu thì làm sao mà giữ được vật ngoài thân cho được. Thường người ở ngoài đời tranh cho được để chiếm giữ, nhưng thân mình còn không giữ được thì làm sao giữ được của hồi môn? Cái đó nên chia sớt cho nhau, cho nhân loại đồng hưởng. Cho dù các con có đạt được sự thế giàu có, công danh tột đỉnh, thì âu cũng là cái phước của kiếp trước biết tích tụ nên kiếp này tái sanh để mà thọ hưởng. Các con cũng nên tu dưỡng cho cây vượng trái lành, cho đời tới kiếp tới an dưỡng cái công đức của mình tạo dựng.."
"Tu Dưỡng Bên Thầy là để cho các con thấy xa hiểu rộng trong Trời văn minh Phật Pháp, mà am hiểu cái quy luật của đời mà hành xử tu dưỡng cho đúng."
Đạo không dạy không biết,
Cây không dưỡng không quả.
"Đạo đức có vun xới thì cảnh trí cao thượng các con mới về hiệp được lòng Trời. Nhân đức của các con có gieo thì để lại cho mình và truyền đời. Mỗi mỗi trong nguyên lý Vũ Trụ đều có sự đi giáp vòng. Như các con làm vườn, khi làm đất xong, các con chỉ trồng vài hột dưa, vài hột đậu, rồi con đi vài ba tháng con trở lại thì trời tưới sương, đất nuôi dưỡng. Nó sẽ cho các con hàng trăm trái dưa, hàng trăm ký đậu, nhưng lúc trồng chỉ có vài hột mà thôi. Cho nên các con thấy một nhà sư, một người thọ nạn, mà giúp họ chút ít để qua cơn đói khó, lúc họ tu thành chánh quả, công đức họ hồi hướng lại các con hưởng được ba kiếp tai qua nạn khỏi. Hoặc khi giúp cho một hàn sĩ trong lúc nghèo nàn mà cho họ có phương tiện học hành, thi đổ thăng quan, phát tài, thì cái đáp lại của họ sau nầy các con chứa không hết. Ấy là cách trồng giống lành thiện đức."
"Còn dưỡng Đạo là khi con tu thành chánh quả, tự thân đi truyền Đạo, giáo Pháp cho cả đại quần chúng. Đó là không khác gì thay Trời làm mưa tưới Pháp Thuỷ xuống ruộng phước của nhân sanh, rồi tự thân của chúng sanh, giống Bồ Đề, mỗi mỗi tự mọc theo thời gian mà trưởng thành theo thiên nhiên và đâm chồi trổ nhuỵ, khai hoa đạt quả. Rồi từ giống nào thì nó đi tìm căn nguyên của nó để kết thành căn nào về với căn đó, sau đó mới đi tìm mưa pháp. Đó là giống Bồ Đề khát nước nên tầm phương pháp để trưởng thành."
Hoa Tâm tầm Pháp Thuỷ,
Bồ Đề tầm nguồn cội.
"Pháp Phật rao giảng ban tưới là Pháp Thuỷ tưới mát Linh Căn, hoa tâm tự thân có giống khai trổ. Đã khai trổ giống lành thì nó sẽ khát nước Bồ Đề. Vì vậy:
Chơn tu tầm minh sư,
Chơn sư chỉ cách dưỡng.
"Mỗi tự thân đã có giống rồi thì phải tầm minh sư hỏi chỗ trúc cơ. Cầu học huyền bí để cho Chơn Linh khai mở, tâm hoa biết cách bón phân tưới nước. Đó là cách dưỡng Đạo để đạt Đạo của bước đầu tiên sơ khai tịnh dưỡng."
Học Đạo rất vô cùng,
Tâm học rất giao kết.
"Lời giáo dạy sáng sủa trong kinh văn có hàm chứa Mật Ngữ, chỉ chỗ Khiếu Linh, kết Thai lập Đảnh. Xưa nay biết bao nhiêu Đạo Gia ngâm, đọc, tụng, thuộc lòng mà chưa ai biết chơn giải chơn lý bên trong. Vì vậy mà không mấy người thành Đạo. Lý do là có tìm ra được ẩn ý trong kinh đâu mà hành cho đúng mà đắc Đạo. Rồi có một số không thông được kinh điển mà còn bày ra chỗ văn tự chê khen để lạc vào rừng văn rối trí, chớ đâu tìm ra được các lời nói huyền cơ dẫn Đạo như trong kinh Đại Thừa có giảng rõ ràng mạch lạc."
Mật Ngữ Thiên Ngôn để lộ bày
Ngàn năm ai hiểu nghĩa Như Lai?
Tu hoài không đắc do không hiểu
Hành mãi tại sao lại tối hoài?
Mật Ngữ Thiên Ngôn hiểu khai ra
Cuối đầu bái phục Đức Di Đà
Cuối đầu bái phục văn Thầy viết
Trong chứa Mật Kinh ai truy xa.
Từ lúc hiểu thông Mật Ngữ rồi
Thiên Ngôn mở mở mãi không thôi
Tôi cười chơn lý nào ai biết
Mở hoát của Trời vui cảnh Tây.
Trời bảo kêu tôi chớ lộ bày
Để thi trí tuệ với thiên tài
Ai hay kinh lý nào mở được
Mở được Chơn Kinh đạp gió mây.
Nhìn giữa Thiên Không con cảm ơn
Dốt mà hiểu thấu rõ sạch trơn
Còn người giỏi học nào hay biết
Muôn thuở ngàn năm vẫn bí đường.
Học Đạo tầm siêu nhiên
Luyện Đạo tầm Linh Khiếu
Thiên Ngôn hiệp siêu nhiên
Mật Ngữ mở Khiếu Linh.
Luyện Đạo diệt vô minh
Thần Khiếu hoà điển linh
Tâm Hoa tự khai mở
Nhìn đất trời thinh thinh.
Hư Vô hoà vào tâm
Long Hoa hiệp âm thầm
Thần giao cùng cách cảm
Đắc Pháp nhìn xuyên tâm.
Minh châu tỏ sáng ra
Đến thế giới Trời Cha
Lệ rơi mừng đạt Đạo
Kim Thân tự hiện ra.
Ôi vui sướng là bao
Khắp Bắc Đẩu Nam Tào
Bốn phương đều hội tụ
Tám tiết tỏ một màu.
Thần Quang hoà Chơn Như
Luôn nói nói cười cười
Như trẻ con mới lớn
Be bé lại thành Sư.
Tôi nhìn tôi trẻ con
Gốc Tiên Đồng tí hon
Nhìn khí linh tròn sáng
Như viên ngọc bòn bon.
Càng lên cao hiệp thân
Thấy tươi trẻ lần lần
Gom Thần Quang nhỏ lại
Mới gọi là Kim Thân.
Luôn luôn sống bên Thầy
Thường ra vào nơi đây
Học Thiên Ngôn Mật Ngữ
Hưởng Thái Bình đó đây.
(Hết trang 17.)
(Tiếp đầu trang 10,)
"Biển khổ đau thương, tình thương bèo bọt. Nên Thầy thường ân độ luồng hồng ân cho các con phát thức tịnh tâm, quy về cùng nhau trong tình đồng đạo. Nối bước Chơn Linh mà tự giải các nghiệp trần, tầm về đường Thánh, tu luyện Pháp Môn, tham thiền nhập định, khai mở điển linh, thông Thiên học Đạo cùng Thầy trong bầu khí linh đang chuyển xuống thế gian trong tình thương yêu của Đại Vũ Trụ, của Thầy Mẹ đang hiện hữu khắp nơi.
Khi các con hội được ánh sáng vào lòng thì sẽ thấy mát mẻ, thoải mái và sảng khoái, khắp châu thân nhẹ nhỏm, tâm hồn du dương an lạc vô vi thanh tịnh. Lúc đó các con vòng tay ôm Thầy Mẹ vào lòng mà vui mừng rơi lệ. Các con sẽ cảm thông được chơn lý triều lưu, linh tâm sáng tỏ. Không ngờ các đại mệnh của Vũ Trụ đã hiệp thân, thông giao các đường kinh mạch tỏ sáng bao phủ châu thân. Biết bao người thành nhân đắc Đạo trong phút nầy. Khóc rồi lại khóc, giữa đêm dài thanh nhẹ. Chơn lý lúc đó sống lại trong con."
"Vạn sự ở trên đời như một tuồng hát của một kiếp người. Lúc đó con mới thấy mỗi người đóng một vai trò: đào hay kép, hay là một ông bầu tạm trong lúc diễn khai. Khi buông xuống, xuôi tay, dòm lại đến chỉ có một mình rồi ra đi cũng chỉ có tự thân. Có bao kẻ hối trước vài năm, thấy xa lúc tiễn biệt? Chỉ có người tu thanh nhẹ mới hiểu được bộ máy Thiên Lý của Trời, giao cảm được định mệnh, nhưng lại xem thường sanh tử. Vì họ đã hiểu thấu bản thân do tứ giả hiệp thành thân khôn lớn. Chính họ đã tu luyện được Kim Thân vô sanh bất tử. Cho dù có xác thân sanh tử, nhưng họ ở chỗ không - lòng. Tuy sống giữa thế gian nhưng theo nhân mà kết theo duyên để mà phổ độ truyền đời. Đó chẳng qua là họ trồng cây lành trái ngọt để lại cho nhân sanh ngàn đời vui hưởng, và để theo gót người xưa mà nối chí tu thân, minh tâm kiến tánh."
(Hết trang 11.)
(Tiếp đầu trang 5.)
Linh tâm dưỡng chơn khí,
Đạo tịnh phổ truyền xa.
Đến khi tự thân hiệp được tròn đầy với linh khí của Thầy thì linh tâm tri ra xa rộng. Kim Thân đi khắp thiên hạ để độ đời mà không mấy ai thấy biết việc làm của người hành Đạo. Lúc nầy cái Thiên Lý trong mình trọn vẹn, mười phần hiệp Đạo, quy túc thuần Dương. Các tịnh lực trong người theo luồng Thiên Lý mà chạy lên bộ não. Khi tiếp được ba luồng khí linh của Tam Giáo thì sáng suốt mở ra. Từ đó thay đổi hoàn toàn bộ não. Từ một bộ não đóng khép lại, mây mù che phủ quanh năm, nay được nó mở ra, tan mây, mà còn hiệp được nguồn Đạo vô biên của Tam Giáo, để tiếp được khí linh của lò Trời nên nó thuần Dương, trong ngoài rỗng rang, dưới trên phát Huệ. Từ Huệ cấp một lên tới cấp mười, thông Thiên đạt Đạo mà hiệp với lòng Trời.
Một khi trí Huệ đã phát ra, thì lòng Đạo đã gởi trọn vẹn cho Đại Đạo của Trời, nên tâm hồn lúc nào cũng như đứa trẻ thơ bên cha mẹ, vô tư trước cảnh Tiên Bồng nhạc trỗi âm diệu du dương hoà trong lòng của một linh giác cảm nhận. Nó triều lưu phơi phới trong âm ba Đại Hồn kết hợp với Quần Linh học Đạo. Sống động vô cùng, minh triết vô biên, với tâm hồn của những đứa con chơn tu biết dưỡng Đạo.
Tịnh luyện nơi Linh Sơn,
Dễ hiệp cùng lò Trời.
Còn cách dưỡng Đạo định tâm, luyện tánh, thì mình nên tầm các núi linh kết nguồn thuỷ điển. Vì ở các núi cao dễ tiếp với linh khí trong sạch của Trời đưa xuống quanh vùng để hỗ trợ Chơn Linh tu tiến, và tâm hồn thiêng liêng cũng khai mở dễ dàng hơn ở trong các đô thị phồn hoa bận rộn.
Ở trong các thành phố đông người, gần các nhà máy chế biến, không khí hoàn toàn bị ô nhiễm, uế khí lan rộng. Luồng trược điển dục vọng của mỗi con người phát ra mãnh liệt đến cực độ, làm ảnh hưởng ba nguồn sinh lực của Thiên Lý ngày đêm lưu hành trong Tam Giáo. Cho nên những người mới tu điển quang còn yếu, công phu bê trễ thì sẽ bị ba luồng điển này áp đảo. Vì vậy tánh tình của người tu ở thành phố không được tròn vẹn Thiên Lý.
Còn những người biết tìm nơi khí linh để kết địa huyệt mà tu, thì lại dễ đạt Đạo, thuần Dương ôn hậu. Ấy chẳng qua là người chưa biết rõ cái lý của Vũ Trụ khí hoá, để mà tu cho có kết quả. Hoặc là không tầm ra bí pháp của Trời để mà tu thì làm sao thành chánh quả. Còn có số người không chịu tầm kiếm minh sư thành Đạo để mà học tập lên lớp cho mình, khư khư ôm cái trình độ hiểu biết dị biệt của kinh lý và lòng phân biệt tư ngã của mình để mà tu. Nếu tu như vậy cùng đời mãn kiếp cũng không đắc thành Đạo quả.
Khi người tu đã thành Đạo, thì nhìn lại những người tu kế tiếp thật là tội nghiệp. Bỏ công thì nhiều mà kết quả thì chẳng được là bao nhiêu. Có phải chăng lòng người tu chỉ muốn cầu an, nhàn thân, hưởng cảnh bố thí của đại chúng để làm vui, quên vinh nhục để ẩn dạng, kiếm lợi nhỏ để cầu nhàn cư bất thiện hay chăng?
"Hởi các Linh Căn giáng thế, các con có biết Thầy lo cho các con không biết là bao. Khi Chơn Linh các con mới giáng trần, các con hứa với Thầy là huynh đệ giáng trần tu luyện, nắm tay nhau xây thành một Quần Tiên Phật Đạo, đoàn kết yêu thương, mở lòng từ thiện, mở trí thông thiên mà tu luyện cùng Thầy, rồi cùng nhau đưa môn đồ sanh chúng về tu luyện pháp Trời, mà cùng cơ Trời về xây Thiên Quốc cho các Quần Linh chung hưởng cảnh sống Thái Bình tu Tiên học Phật. Rồi còn hứa với Thầy lập Hội Long Hoa để thi hàng Đạo Đức, thi đứa tu thân hành nghĩa vào trong Hội Long Hoa để nhận ơn Thầy.
"Tất cả ba ngàn đệ tử của Thầy đều xin lập công bồi đức, hạ phàm đầu thai vào các tầng lớp trong khắp Năm Châu Thế Giới đang hiện hữu làm người; đang trưởng thành là một chúng sanh trong nhân loại; đang là thiền sư tu sĩ; đang là khoa học gia thời đại; đang là các nhà từ thiện; đang là các nhà lãnh tụ; đang là bác học kỹ sư; đang là các hàng dân thôn dã; đang là các triệu phú đương thời. Các con hãy lắng nghe tiếng gọi của Thầy trong Chơn Linh tánh giác. Trong lúc các con yên lặng trong những đêm vắng, trong giấc ngủ trẻ hiền, các con sẽ thấy Thầy đến với các con vô vi thầm lặng. Thầy đã chuyển ba luồng Đại Trí, Đại Bi, Đại Dũng xuống thế gian, để hiệp với Thánh Nhân kêu gọi tất cả Chơn Linh của các con tỉnh thức mà trở về hiệp với Thánh Nhân tu thành chánh quả và cùng ba ngàn Đại Tiên, Đại Thánh, đã giáng hạ làm người. Thầy đang kết một cái thang vô hình từ Thiên Không xuống trần gian kỳ nầy bằng Như Ý Pháp Môn Vô Vi Huyền Bí Học cho Thánh Nhân được lên lớp các đại đệ tử của Thầy.
Về đi con đêm ngày Thầy đợi
Đem tình thương nhân nghĩa hiệp nhau
Cứu nhân sanh huynh đệ đồng bào
Đem hạnh phúc giồi trau Linh Thể.
Con ơi con, Thầy ngồi rơi lệ
Thương con thơ trong chuyến đò chiều
Bao ngàn năm Thầy đã chắt chiu
Nay giáng hạ lập đời trở lại.
Thời tiết đổi tang điền thương hải
Con ơi con sớm biết quay về
Giữa hồng trần thức tỉnh mùi mê
Quần Tiên Hội dựa kề Thầy Mẹ.
(Hết trang 9.)