Cảm Tạ
Con thành tâm cảm tạ Thiên ân của Đức Phật Tổ, Đức Cha Trời Mẹ Đất, và Cộng Đồng Cửu Phẩm - Phật, Tiên, Thánh, Thần - Tam Giới Thiên Địa Nhân.
Con cũng thành tâm cảm tạ công ơn Thầy Tổ và chư vị Đạo Hửu ở địa phương và năm châu thế giới, đã đặc biệt quang chiếu Thanh Quang Điển Lành và trợ giúp cho con có phương tiện thực hiện các tập sách - Thi Văn Tâm Linh Đạo Học - để con và chư vị Đạo Hửu có cơ hội phụng sự Cơ Thiên Địa Đại Đạo của Đức Như Lai Phật Tổ và Đức Thiên Địa Phụ Mẫu.
Con chân thành ước mong được chia sẻ Tình Thương, Đạo Đức, và sự hiểu biết về Sức Khoẻ và Tâm Linh Điển Quang Đạo Học cùng với cộng đồng Nhân Sinh, Vạn Linh Tam Giới.
Một lần nữa con xin thành tâm đảnh lễ và cảm tạ Thiên Ân Bề Trên, và con đặc biệt cảm tạ chư vị Đạo Hửu, Thân Hửu cùng tất cả quí bạn đọc khắp nơi trên thế giới đã và đang dành rất nhiều cảm tình và sự trợ giúp quí báu.
Trân trọng kính bái,
Vô Danh Thị
Lời Tựa
Đốn Văn Phật cho tỉnh lòng Đạo
Pháp năng hành Linh Bảo hiện ra
Ngộ không tên không tướng truyền xa
Không động tịnh là nơi giải thoát.
Đạo Học là chơn lý vô biên siêu nhiên tịch tịnh, như lòng Trời trước sau trên dưới rỗng tuếch, mà lại chứa cả thiên kinh muôn pháp của Hư Không. Người mới ngộ dường như trống không, vô tư, lặng lẽ, nhưng nào ngờ nơi đó là chỗ linh thiêng vô cùng.
Pháp giới thì mông lung vô tận, siêu hình hửu cảm:
Như cái nhà lớn chứa hết tất cả chơn linh.
Như một cái trống lớn đánh vào vang xa muôn dặm.
Như cái nhân lớn vô tên đầy ấp sự vi diệu.
Như cõi lòng Trời yêu thương tới chỗ đầu nguồn.
Như cái biển lớn đưa các thuyền pháp của Tiên Phật lui tới muôn nơi, ẩn yên một thể bất động.
Cõi vô hình sanh vật hửu tình
Cõi không động sanh tâm chánh giác.
Chơn lý Hư Không là vô hình bóng.
- Không thể lấy trí mà bàn, bàn nhiều sẽ trật.
- Không thể lấy tâm mà suy, vì suy diễn sẽ sai.
- Không thể lấy hiểu biết mà luận đoán, luận đoán sẽ bị lầm lẫn.
- Không thể lấy hửu tâm mà chép, chép thì không tỏ sự vi diệu của nó.
- Không thể lấy vô tâm mà truy, càng truy càng bị che đậy.
Muốn truy nó, thả lòng vô tư.
Muốn gặp nó, vô vi tự nhiên.
Muốn giữ nó, vô trần bất nhiễm.
Muốn tầm nó, tỉnh chỗ có duyên.
Có duyên Thiên Lý Toàn Chơn
Đạo tâm vô tư liễu ngộ.
Người muốn đạt Đạo Lớn:
Dọn mình sống tự nhiên
Yên thân sống tự tại
Yên Đạo sống an nhiên
Yên lòng đón Chơn Thiên.
Nhứt dục trần sanh
Vô vi biến dạng.
Nhất động trần mê
Chơn tâm che tối.
Phả lấp chỗ tự nhiên
Che đậy chỗ minh diệu.
Cho nên người học Đạo Lớn nên nhớ kỹ:
Phàm giả ngã, kết tánh chúng sanh
Chơn giả giác tự nhiên Phật hiện.
Nhất động không sanh
Lương tâm thanh tịnh hiệp về.
Đạt tịnh quy thanh
Muôn kinh ngàn điển hiệp thành Thánh Tâm.
Học Đạo Lớn không tình
Nên luyện chỗ vô hình,
Đạt Đạo Lớn không tâm
Nên Thiên Lý truyền tâm.
Ngộ nhất Không khai sáng thiên Không
Ngộ nhị Không Kim Thân cải lão.
Kính Bái
Vô Danh Thị.
Chơn Đạo Vô Hình.
Chơn Phật Vô Tướng.
Chơn Nhơn Vô Danh.
Chơn Tu Vô Tranh.
ĐỐN PHÁP NGỘ KHÔNG
☀️
CẦU ĐẠO GIẢI THOÁT
🔆
Ở chân núi Tòng Sơn có một vị Thiền Sư đã liễu ngộ được Phật Pháp. Vào một buổi sáng đẹp trời, vị Thiền Sư đang ngồi thiền định, thì có một vị Thiện Trí Thức đến vùng núi Tòng Sơn để gặp vị Thiền Sư vấn Đạo Giải Thoát.
Vị Thiền Sư đang thiền định, ông mở mắt ra, thấy nhà Thiện Trí Thức kia lưng mang ba lô, đầu đội lương thực, vai gánh dụng cụ đồ dùng; vừa đội, vừa gánh, vừa vác. Thấy vậy vị Thiền Sư tiếp tục nhắm mắt thiền định.
Vị Thiện Trí Thức chờ đến trưa không thấy có kết quả, nên ra về.
Vào một hôm, tháng sau, vị Thiện Trí Thức lại tiếp tục hành trang lên núi Tòng Sơn để gặp vị Thiền Sư cầu Đạo Giải Thoát. Lần này, ông mang một cái ba lô và đội một ít lương khô để dành phòng thân. Vị Thiền Sư biết ông đến, nên mở mắt ra và lắc đầu ba lần rồi nhắm mắt lại. Ngài không nói gì, và tiếp tục thiền định.
Nhà Thiện Trí Thức, cũng như lần đầu, chờ mãi không được, nên bỏ ra về.
Vào tiết Lập Thu, nhà Thiện Trí Thức thức tâm, một lòng cầu Đạo, và quyết gặp cho được vị Thiền Sư để vấn Đạo. Lần này ông chỉ mang theo một gói nhỏ quần áo và một ít lương khô. Đến núi Tòng Sơn, thấy vị Thiền Sư đang ngồi thiền định. Như thường lệ, vị Thiền Sư mở mắt ra nhưng lần này có khác, vị Thiện Trí Thức nầy được vị Thiền Sư mời ngồi và tiếp chuyện.
Nhà Thiện Trí Thức rất vui mừng và mau miệng hỏi: "Bạch Sư Phụ, con muốn cầu Đạo Giải Thoát."
Vị Thiền Sư đáp: "Con đã bỏ gánh công danh của đời, và con đã giải cho hai vai của mình một gánh nặng, nay nó được thông thả nhẹ nhàng rồi vậy. Còn con bỏ cái ba lô sau lưng nặng trĩu kia, đó là con chấp nhận sống theo tự nhiên, siêu nhiên, không vướng chấp theo lòng tư dục, lượm lặt các thứ phân biệt phàm tâm mà làm vướng bận sự phải quấy của thiên hạ. Và con cũng bỏ luôn cái đội nặng trĩu trên đầu, thì đầu con đã được thông thả.
"Từ tạo Thiên lập Địa đến nay, con người từ Tiên Giới giáng trần, vì ham mê mùi trần thế tục mà phải đội đủ các lớp, lâm vào mọi cảnh. Kẻ đội lớp công hầu thì phải học lòn cúi theo thời, ở ăn theo thế, cho phù hợp tình đời. Còn người đội lớp phú quý, thì suốt đời bị lòng hưởng thụ lôi cuốn, theo bè bạn vào những chỗ thanh lâu tửu sắc, mà tưởng lầm là cảnh hưởng lạc cao sang. Chớ bậc chơn tu thấy nó là cửa hang đi vào Địa Ngục đó vậy. Vì ngoại cảnh, con người không biết đội cho khéo trong vai trò của mình một đời, mà đời sau phải bị đội sừng lớn, tai dài, bận đồ da thú, phơi thây cùng tuế nguyệt cho thoả chí tang bồng hồ hải!
"Nay con đã vào đây cầu Đạo Giải Thoát, thì con đã bỏ được ba gánh nặng ấy, đó là con đi được nữa đường của Đạo Giải Thoát rồi vậy."
Nhà Thiện Trí Thức liền nhờ Thiền Sư dạy cho một nữa đường còn lại của Đạo Giải Thoát.
Vị Thiền Sư nói: "Hôm nay ta dạy cho con một pháp thiền căn bản, con về lại gia cang mà tu dưỡng. Vừa tu vừa làm việc nuôi vợ con, và thanh lọc bản thân cho sạch sẽ, thần trí được ôn hoà, rồi ba năm sau vào đây gặp ta."
Nhà Thiện Trí Thức chào Sư Phụ rồi ra về lại nhà.
Theo lời Sư Phụ, ông vừa tu dưỡng pháp môn thiền định, vừa cải thiện lại đời sống gia đình thành một gia đình có đạo đức.
Đúng vào mùa Thu năm thứ ba, ông lại khăn gói lên đường vào núi Tòng Sơn gặp vị Thiền Sư để học thêm phương pháp giải thoát.
Vị Thiền Sư dạy phương pháp giải thoát:
1. Buông cái lòng mê đời
Cho tánh được an yên
Bỏ cái tâm phân biệt
Cho trí được thanh tịnh.
Quên quá khứ của đời
Cho Ma Lục Dục cháy khô.
Bỏ cái suy tưởng vị lai
Cho Quỷ Thất Tình hết cám dỗ.
Quên thân
Bỏ phận
Diệt danh.
Muốn đạt Đạo Lớn
Sau trước không có thân sơ
Lúc chưa sanh ra là vô tánh
Lúc ngộ Đạo rồi phải học vô trần.
Xưa nay con người nhận giả làm chơn mà sanh ra hai con đường là tà với chánh.
Tà sanh chiếm đoạt
Chánh sanh cố giữ.
Cả hai không phải là Đạo Giải Thoát.
Muốn học Đạo Giải Thoát
Phải tự giải chỗ thân sơ.
Không mình
Không người
Không chúng sanh.
Trước phi tâm
Sau phi tánh.
Kế đến là phi phi tưởng.
Thì mới không còn ngại chướng trên đường đi vào Đạo Giải Thoát.
2. Bỏ danh phận địa vị
Cầu Đạo Lớn bên trong không có mình.
Đại học Đạo, cầu Đạo quên mình
Tiểu học Đạo, cầu Đạo có mình.
Quên mình là:
Quên thân cho ngã mạng không sanh
Quên tâm cho trí tuệ yên tĩnh
Quên tánh cho tà chánh cháy tiêu
Quên pháp cho thân được liễu ngộ
Quên Đạo cho diệt lòng thiện ác.
Đứng trước tâm
Tâm lại không tâm.
Đứng trước tánh
Tánh lại không tánh.
Đứng trong lòng
Lòng lại không lòng.
Đứng trong cảnh vật
Mà không có cảnh vật.
Có bỏ được như vậy, thì mới tỏ ngộ Đạo Hư Không.
3. Diệt Danh Đạt Đạo.
Đạo Lớn không tình
Sanh dưỡng Trời Đất.
Đạo Lớn không hình
Xoay vầng nhật nguyệt.
Đạo Lớn không tên
Làm chủ thiên hạ.
Phật gọi cõi Vô Tướng
Là Niết Bàn Tịch Diệt.
Tiên gọi cõi Vô Danh
Là Chơn Khí Hổn Nguyên.
Thánh gọi Cõi Vô Sanh
Là Huyền Đồng một thể.
Thần gọi cõi Vô Tranh
Là Vô Cực Hồng Mông.
Con phải luôn nhớ kỹ ba thể diệt danh nầy mà nghiệm cho ra mối Đạo.
Chơn Đạo Vô Hình
Chơn Phật Vô Tướng
Chơn Nhân Vô Danh.
Đạo chẳng cầu danh nên được thiên hạ kỉnh thờ
Phật chẳng cầu danh nên được nhân loại học tập
Chơn tu chẳng cầu danh nên tu Đạo giải thoát.
Giải được Đạo của mình
Thoát khỏi lòng tư dục.
Giải được Đạo của người
Là thiên hạ tự an.
Thiên hạ tự an
Vô Vi khôi phục
Thái Bình trăm họ
Quả cầu phát quang.
Đạo thuần Dương là nhờ trăm họ biết tu dưỡng cho tới chỗ an yên. Bây giờ ta lên lớp cho con về pháp Vô Vi Tiên Thiên.
Nhà Thiện Trí Thức hỏi Sư Phụ:
- Vậy con phải học ở 'Thiên' nào mới được đắc pháp?
Vị Thiền Sư đáp:
- Con có nghe qua trong kinh Đạo Học dạy, là Tam Thiên Thế Giới của Trời tuy là một thể, không trước, không sau, không trên, không dưới. Vì Đức Chí Tôn thương đàn con dại, nên Ngài lập ra ba thế giới để dẫn tiến Chơn Linh tu dưỡng Đại Đạo.
1. Thế giới thứ nhất là thế giới hoàn toàn Hư Linh, Hồng Mông huyền diệu; sống bên ngoài của thời gian và không gian vận chuyển; trước sau một chơn khí Hỗn Nguyên; trong ngoài Tam Muội Chơn Hoả đầy đủ. Phần đông các vị Hoạt Phật, Thiên Tôn, đều phải học qua pháp môn Hư Vô Vô Vi. Các vị Hoạt Phật, và các vị Thiên Tôn đều gọi là Chơn Pháp Hư Vô Không Tướng. Cõi nầy được dạy bằng Bạch Tự Chơn Kinh; huyền bí, hoàn toàn huyền bí, siêu hình học. Ở đó là thế giới vô ngôn, vô danh thị.
2. Thế Giới Nhất Nguyên. Ở đây là cõi Hư Linh Chi Khí trở xuống Thái Cực. Thái Cực chia ra ba thể:
- Khí Thuần Âm
- Khí Thuần Dương
- Đạo Trung Dung
Trong khí Âm sanh ra Nhất Dương. Nó là cái mặt trời hiện giờ. Đạo gọi là 'trung Âm hửu Dương'. Trong khí Dương sinh ra một tượng Thiếu Âm để đối lại tượng đó là mặt trăng 'trung Dương hửu Âm' hiện nay. Từ đó luồng khí linh thiêng của Hư Vô chiếu xuống chánh giữa của hai khí Âm Dương để làm thế đạo đức cho Âm Dương không lấn chen khí hoá của mình hơn qua vị trí khác. Chơn linh khí cả Vô Cực kết hợp với linh khí của Âm Dương mới sanh ra chín triệu sáu trăm ngàn vì tinh tú hiện diện khắp Tam Thiên Thế Giới.
Khi Thái Cực lập được ba thể vừa xong, thì tự nhiên trong Trời Đất kết hợp sanh ra ba tầng Đại La Thiên Giới để đại diện Tam Thốn Khí Linh của Vô Cực, để hiển Đạo khắp mọi nơi. Ở đây Thần Tiên Thánh Phật đồng luyện một pháp môn Tiên Thiên Vô Vi. Pháp môn nầy:
Căn Hiền tu đắc Thần
Căn Thần tu đắc Thánh
Căn Thánh tu đắc Tiên
Căn Tiên tu đắc Phật
Căn Phật tu đắc Thiên Tôn.
Pháp môn nầy nó đi kèm với bộ Thiên Kinh - Vô Tự Chơn Kinh - của cõi Đại Tam Thiên Thế Giới, mà hiện nay Sư Phụ lên lớp cho con về lại tu dưỡng tiếp tục cho đắc pháp để vào được hai cõi nầy mà tu dưỡng ba thời pháp của Trời mới thành chánh quả được.
Thời pháp thứ nhất là Huyền Linh Học
Thời pháp thứ hai là Thiên Tượng Học
Thời pháp thứ ba là Pháp Môn Học.
3. Sau khi Tiên Thiên Thế Giới lập xong, thì Trời lập ra Thế Giới Trung Thiên. Thế Giới Trung Thiên lại chia ra ba Thiên:
- Địa Tiên
- Thế Giới Nhân Loại
- U Linh Giới - cõi Âm.
Ba thế giới nầy bao gồm Thần, Thánh, Tiên, Phật, của cõi Địa Tiên. Tất cả phải đi theo sáu đường tiến hoá, gọi là Lục Đạo Luân Hồi, chuyển thân hoá kiếp không ngơi nghỉ. Cho nên Thượng Đế cho dạy các pháp căn bản hửu vi và một số kinh pháp hửu vi cho tới vô vi pháp môn, để dạy cho người biết tu dưỡng tinh thần, phục hồi thể lực. Còn kinh pháp là dạy Ngũ Luân, chỉ đường tu giải thoát. Nhưng giải thoát từ phàm thân mà xuất thần để tu về Trung Giới, để học Tâm Pháp Vô Vi Tiên Thiên, thì mới biết cách hiệp khí hoá Âm Dương, điều hoà mệnh lý, mà sanh ra Thánh Thai lập đảnh an lư, để về lại Đại Thiên Thế Giới, thì mới thật sự giải thoát, hoàn toàn Chơn Linh siêu thoát.
Còn phần đông các vị sư phụ đem các pháp Hậu Thiên dạy pháp môn sơ thiền căn bản phổ truyền trong quần chúng, để tập cho thể lực dồi dào mà an dưỡng đạo đức, cho kẻ dữ biết làm thiện, cho người thiện biết làm việc thiện, giúp hiền, độ khó, nâng đỡ lẫn nhau, tương thân tương ái. Cho nên các pháp nầy ai ai tập luyện cũng được. Còn Tâm Pháp của Đạo Gia, không phải muốn học là học được.
Tâm Pháp dạy cho người có duyên
Tâm Pháp dạy cho người có Đạo
Tâm Pháp dạy cho người có căn cơ
Tâm Pháp dạy cho người lành Đạo.
Tâm Pháp là Linh Bảo của Trời
Là ngọc linh thiêng của người
Ai được nó như được Pháp Như Ý
Ai hành được nó như thâu lòng Trời vào mình.
Hửu duyên gieo giống xuống
Trời Đất sẽ sanh dưỡng
Vô duyên không có giống
Vô giống chẳng sanh tông.
Nhà Thiện Trí Thức hỏi: "Sư Phụ, có cách nào để con dễ tu đắc Tâm Pháp không?"
Vị Thiền Sư dạy: "Tâm Pháp là Tâm của Trời, Pháp của Phật. Người hành Tâm Pháp nên luôn nhớ kỹ những quy định sau đây:
1. Luyện Pháp quy Tâm
Ứng biến vạn pháp.
2. Luyện Pháp quy Không
Chế ngự muôn cảnh.
3. Luyện Pháp quy Nhất
Ứng đối vạn lý.
Không lấy Có làm nền
Có lấy Không làm nhà.
Có Tâm như không Tâm để hoà vào thế giới Huyền Không Hư Linh Chi Khí, huyền hoá đến vô cùng.
Có Tánh như không Tánh để hiệp nguồn chơn lý Nhất Nguyên. Không hình bóng, làm chủ muôn ngàn hình bóng, nắm giữ Càn Khôn, điều hành Vũ Trụ.
Đạo lấy Tâm làm bổn lai
Pháp lấy Tánh thâu diện mục.
Minh Tâm tỏ bổn lai
Kiến Tánh rõ diện mục.
Đến đây:
Tâm Pháp, ngộ Pháp Không
Tâm Đạo, ngộ Đạo Không.
Nhất Không hiệp khí hoá Hư Vô
Nhị Không hiệp Ba Ngàn Thế Giới.
Trời không tâm
Là Linh Khí cõi Hườn Đồng.
Cõi không tên
Là nguồn pháp Đại Quang Minh.
Phật nơi đây vô tướng
Nên luyện pháp không tánh.
Tiên nơi đây không tên
Nên luyện pháp không tâm.
Tánh là lý của Trời
Tâm là Đạo của Phật.
Hiệp Nhất Nguyên vạn pháp quy tâm
Nơi không động ngàn tánh hiệp nhất.
Biển Đạo vốn không tình
Lại sanh ra muôn vật.
Cửa Đạo vốn không tên
Lại làm chủ Trời Đất.
Đến được nơi Đạo Lớn:
Tu như không tu
Không tu như tu.
Bậc thượng sĩ ngộ nơi không Đạo
Bậc hạ sĩ ôm tranh Bá Đạo.
Bậc thượng sĩ không đức
Bậc hạ sĩ chấp đức.
Bậc thượng sĩ vô tranh
Bậc hạ sĩ ham tranh.
Học thượng nhân
Luôn giữ tâm trống lòng không.
- Mới hiệp Đạo tưởng như không có
Mà có cả Hư Không.
- Mới ngộ tánh tưởng như không tình
Nhưng lại hiệp Một vào biển yêu của Thượng Đế
Tình yêu bắt nguồn từ thời Nguyên Thuỷ, yêu trong lặng lẽ vô tư mà không lòng vị kỷ.
- Mới đốn pháp tưởng như không linh
Nào ngờ ngộ Không là chưởng quản muôn pháp.
Ngộ Không khai mở Linh Tâm
Đạt Đạo linh ứng khắp cả.
Tâm Không là tâm Chí Thiện
Tánh Không là tánh Chí Nhân
Pháp Không là pháp Chí Thánh
Đạo Không là Đạo Trường Sanh.
Mới ngộ cảnh Không
Dường như không động.
Mới ngộ Trời Không
Hình như trong trống.
Mới ngộ Chơn Không
Lòng như thông suốt.
Thành được Đạo Không
Trí tuệ suốt thông.
Biết được Đạo Lớn vô hình
Nên giữ lòng trong sạch quân bình.
Biết được Phật Lớn không tình
Bổn lai diện mục đều linh.
Nhân chi sơ tánh bổn thiện
Đạo ban sơ vô hình tướng.
Mỗi con người còn thân, nên còn dùng pháp
Đã thành Đạo Chơn Nhân, pháp tức Tâm Pháp.
Đạo Hửu Vi
Hậu Thiên dạy nơi cái Có.
Đạo Vô Vi
Tiên Thiên dạy chỗ ngộ Không.
Ngộ Không đả thông
Đạo thông chí công.
Tịnh Không thanh Không
Hiệp Không hườn Không.
Trống Không, Không Không
Hửu Vô về Tông.
Pháp vô tướng ngộ cảnh Trời không sắc
Đạo vô hình giải thoát cái trần tâm.
Tâm tĩnh Thần giao
An vậy lặng vậy.
Tâm giác Thần linh
Văn minh Phật Pháp.
Nhiếp tâm trung hoá giải phàm tâm
Thâu nguyên khí kết thân lập mệnh.
Trước dùng tĩnh để tịnh
Sau dùng thanh để định.
Tỉnh lòng trần tịnh luyện pháp môn
Thâu thanh khí Thuần Dương nhập định.
Lấy khí thanh xuống giải tâm
Thâu chơn khí về mở khiếu.
Tâm khiếu hiệp nhất
Đạo được viên dung.
Thông Đạo Tâm ngàn pháp đều linh
Mở Huyền Khiếu văn chương tiến sĩ.
Tiến đức tu thân minh Đạo
Sĩ tử minh hiền đắc Pháp.
Đến đây Đạo trong lòng đầy ấp, con nên giữ đức, đừng để cho tràn ra.
(Hết trang 19.)
(Tiếp theo trang 125.)
III. Đạo Lớn Không Hình
Vô hình vạn vật đều linh
Vô tình đạt Đạo giải thoát.
Đến đây nó có một cảnh giới phân biệt
Người tu phải đi tới chỗ vô nhiễm, vô chấp, thì mới vào được chỗ đại triệt, đại ngộ.
Tâm sanh Phật diệt Phật
Tâm sanh Ma diệt Ma.
Trước vô ngã, sau không chánh tà
Trước phi sắc, sau phi phi tướng.
Tánh sanh phân biệt diệt phân biệt
Tánh sanh thiện ác diệt thiện ác.
Đạo cao nhất là phi ngã, diệt danh
Pháp cao nhất là phi thiện, phi ác.
Không mình tức vô ngã tướng
Không người tức diệt ngã tướng
Không chúng sanh tức diệt phàm ngã, diệt luôn vô ngã.
Có diệt tận gốc của chơn tâm
Thì Đạo Vô Sanh mới hiện hửu.
Mới đắc pháp hườn Không đạt Đạo
Mới thống nhất vào chơn lý Vô Hình.
Diệt được tâm sắc tướng
Chơn tịnh tâm mới sanh.
Diệt được cái ngã tướng
Chơn Đạo mới hiệp về.
Phật đạt không hình
Hư Không tâm kính.
Phật đạt văn minh
Minh định Thái Không.
Thuyền pháp lái qua sông
Nhìn giữa dòng đổi xác.
Bốn phương thông đạt
Sáu Cõi Ba Nhà.
Vào Bảo Giang lái thuyền giữa Thiên Hà
Tâm thanh Đạo, Kỳ Sơn thơm lạ.
Đem thuyền pháp vào dòng sông ngộ
Đò vô tâm chở khách hửu duyên.
Giống Bồ Đề mọc lại Nam Thiên
Chuyện Thuỷ Hử anh hùng kết nghĩa.
Đạo khai mở truy hàng tòng bá
Đò Long Hoa mời bậc nhân hiền.
Chơn Lý Lộ Thiên
Nối Vòng Hai Tám.
Nhạc Trời trổi giữa Hư Không
Phổ truyền Đạo Đạo Chơn Không.
- Hết -
(Hết trang cuối.)